Phát triển sinh kế bền vững tại vùng đệm các Khu dự trữ sinh quyển thế giới của Việt Nam
Kỷ niệm Ngày Quốc tế Khu dự trữ sinh quyển (3/11 hàng năm), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Chương trình Tài trợ nhỏ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF SGP), phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức Tọa đàm 'Phát triển sinh kế cộng đồng tại vùng đệm của các Khu dự trữ sinh quyển tại Việt Nam'. Đây là hoạt động nằm trong chuỗi sự kiện kéo dài ba ngày (từ ngày 7- 9/11) nhân kỷ niệm Ngày quốc tế về Khu dự trữ sinh quyển năm 2024 để tôn vinh các giá trị về thiên nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa và phát triển bền vững của các Khu dự trữ sinh quyển thế giới (KDTSQ) tại Việt Nam.
Tọa đàm nêu bật vai trò quan trọng của các cộng đồng địa phương trong việc phát triển sinh kế bền vững, đồng thời góp phần vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Tham gia các sự kiện, các đại biểu có cơ hội nhìn lại các kết quả của Việt Nam trong việc phát triển và quản lý bền vững các KDTSQ thế giới tại Việt Nam trong những năm qua, tìm hiểu các sản phẩm nông sản do các cộng đồng địa phương phát triển và thảo luận về các nỗ lực bảo tồn đang được thực hiện, bao gồm cả các thách thức trong việc phát triển và quản lý KDTS tại Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai.
Danh hiệu KDTSQ lần đầu tiên được UNESCO đưa ra vào năm 1971 để công nhận các khu vực rộng lớn có giá trị văn hóa và thiên nhiên quan trọng.
Kể từ năm 2000 khi KDTSQ RMN Cần Giờ được UNESCO chính thức công nhận, hệ thống KDTSQ thế giới tại Việt Nam đã được phát triển lên đến 11 khu. Mỗi khu đều có sự đa dạng sinh học cao với các đặc điểm thiên nhiên và văn hóa độc đáo, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, bảo tồn hệ sinh thái và sinh kế cộng đồng.
Để giúp các cộng đồng ở các vùng đệm của KDTSQ thế giới phát triển sinh kế bền vững, với sự tài trợ của Quỹ GEF, từ năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường và UNDP đã thực hiện Dự án “Lồng ghép mục tiêu quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quản lý các khu dự trữ sinh quyển tại Việt Nam” (Dự án BR).
Dự án BR đã áp dụng Cơ chế tài trợ nhỏ theo Chương trình tài trợ nhỏ của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF SGP) hỗ trợ cộng đồng tại 14 xã thuộc 3 KDTSQ Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm - Hội An và Đồng Nai triển khai các mô hình sinh kế bền vững trong sản xuất nông lâm kết hợp, chăn nuôi gia súc, và du lịch sinh thái cộng đồng...
Các Quỹ quay vòng đã được thành lập tại mỗi xã để cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ cho các thành viên cộng đồng theo cơ chế luân phiên, đã chứng tỏ là mô hình tài chính đáng tin cậy và bền vững cho phát triển cộng đồng về dài hạn. Việc phát triển thị trường cho các sản phẩm đã được hỗ trợ và tham gia chặt chẽ của chính quyền và người dân địa phương.
Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Điều phối viên quốc gia của UNDP GEF/SGP, chia sẻ: “Các Dự án tài trợ nhỏ đã phát huy, kế thừa rất tốt các kinh nghiệm, cách làm, xây dựng năng lực cho đội ngũ cán bộ thôn bản, xã, huyện, cùng với cộng đồng phát triển nhân rộng được các mô hình sinh kế gắn kết với nguồn lực địa phương, tạo các quỹ xoay vòng tại nhiều xã làm tiền đề cho nhân rộng lan tỏa. Cộng đồng các thôn, bản đã nhận thức rất tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng, góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số và phát huy danh hiệu Khu dự trữ sinh quyển”.
Dự án BR do Bộ Tài nguyên và Môi trường và UNDP triển khai thực hiện là một phần trong các nỗ lực lớn hơn nhằm thúc đẩy quản lý bền vững các KDTSQ trên khắp Việt Nam, đóng góp trực tiếp vào các Mục tiêu của Khung đa dạng sinh học toàn cầu (GBF), đã được thông qua tại Hội nghị các bên lần thứ 15 (COP15) của Công ước Đa dạng sinh học (CBD) năm 2022.
Với sự hỗ trợ của GEF, Dự án đã góp phần quản lý hiệu quả hơn 1,8 triệu ha diện tích rừng và biển tại các KDTSQ Tây Nghệ An, BR Cù Lao Chàm - Hội An và Đồng Nai. Dự án đã hỗ trợ trực tiếp cho hơn 3.100 hộ gia đình, mang lại lợi ích trực tiếp cho hơn 14.700 cá nhân thông qua hoạt động tăng cường năng lực và tập huấn các thực hành bảo tồn và phát triển sinh kế bền vững cho cả cán bộ chính quyền địa phương và thành viên cộng đồng. Với việc phụ nữ chiếm 42% số người thụ hưởng đã củng cố cam kết của Dự án về phát triển bao trùm và cân bằng giới.