Phát triển nguồn nhân lực để giữ lửa làng nghề

Cùng với việc lưu giữ và phát huy nét đẹp văn hóa lâu đời ở vùng nông thôn, sự phát triển của các làng nghề tại nhiều địa phương đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực. Tuy nhiên, nhiều làng nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một do nguồn nhân lực trong tình trạng già hóa, thiếu hụt lao động, vắng bóng đội ngũ kế cận có tay nghề.

Nhiều làng nghề nguy cơ thất truyền

Vào thời kỳ thịnh vượng cách đây chục năm, làng nghề mây tre đan Triệu Đề, xã Triệu Đề, huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) có gần 1.000 hộ sản xuất tấp nập với các mặt hàng đan lát từ mây, tre phục vụ đời sống hàng ngày và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên đến nay, làng nghề chỉ còn hơn 300 hộ làm nghề không thường xuyên mà tranh thủ thời gian nông nhàn. Thu nhập bình quân khoảng 2 - 3 triệu đồng/người/tháng.

 Sự già hóa nguồn nhân lực làm nhiều làng nghề có nguy cơ mai một. Ảnh: Tùng Dương

Sự già hóa nguồn nhân lực làm nhiều làng nghề có nguy cơ mai một. Ảnh: Tùng Dương

Cùng với đó, làng nghề thiếu thợ giỏi, người có tay nghề cao, nên sản phẩm làm ra chưa được cải tiến, giá thành thấp, thị trường tiêu thụ lại bấp bênh khiến việc giữ chân các lao động ở làng nghề đan lát Triệu Đề gặp khó khăn. Theo nhiều thợ lâu năm trong làng, đã gắn bó với nghề mây tre đan tới vài chục năm thì nghề này đòi hỏi sự tỉ mỉ, chịu khó. Có khi làm cả ngày chỉ được 3 - 5 sản phẩm, tiền công 50.000 - 70.000 đồng, khó thu hút lao động trẻ.

Ông Phạm Huy Hoạt, Chủ tịch UBND xã Triệu Đề cho biết, hiện nay, số người trong xã còn gắn bó với nghề chủ yếu là người già, người trung niên và phụ nữ lúc nông nhàn. Đầu ra không ổn định, thu nhập thấp nên lớp trẻ không có ai theo nghề cha ông mà chuyển hướng sang các ngành nghề khác có thu nhập cao và ổn định hơn.

Cũng giống như làng nghề Triệu Đề, Năm 2005 là khoảng thời gian "hoàng kim” của làng nghề đan lát Ba Đông (xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) khi có tới hơn 300 hộ sản xuất các mặt hàng đan lát từ tre, nứa phục vụ nông nghiệp, đánh bắt thủy sản.

Tuy nhiên, đến nay, làng nghề chỉ còn hơn 40 hộ với trên 80 lao động nhưng cũng không làm nghề thường xuyên mà tranh thủ thời gian nông nhàn, thu nhập bình quân khoảng 2,8 triệu đồng/người/tháng.

Do thiếu thợ giỏi, người có tay nghề cao nên sản phẩm làm ra chưa được cải tiến, giá thành thấp, thị trường tiêu thụ lại bấp bênh khiến việc giữ chân lao động ở làng nghề đan lát Ba Đông khó khăn hơn bao giờ hết.

Chủ tịch UBND xã Hoàng Xá Đào Công Thọ cho biết, số người gắn bó với nghề trong xã hiện nay chủ yếu là người già từ 60 tuổi trở lên, còn thế hệ trẻ và những người trong độ tuổi lao động đi làm tại các doanh nghiệp trong Cụm công nghiệp Hoàng Xá hoặc các ngành nghề khác vì có thu nhập cao và ổn định hơn.

Thiếu hụt lao động và lớp trẻ kế cận khiến làng nghề sản xuất ủ ấm bình nước Sơn Vi (xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) đứng trước nguy cơ mai một. Thời kỳ thịnh vượng cách đây vài chục năm, làng nghề có cả trăm hộ sản xuất.

Cần có định hướng phát triển nhân lực

Sự phát triển của các làng nghề đã góp phần tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao động nông thôn. Ngành nghề nông thôn tạo việc làm cho khoảng 3,69 triệu lao động, thu nhập bình quân 5 triệu đồng/người/tháng; xuất khẩu sản phẩm và nguyên liệu đạt 3,3 tỷ USD.

Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn nhân lực tại không ít làng nghề đang lâm vào tình trạng già hóa, thiếu hụt lao động, vắng bóng đội ngũ kế cận. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này xuất phát từ việc lao động trẻ, lao động có tay nghề chuyển dịch sang làm việc ở các lĩnh vực khác hoặc thoát ly khỏi địa phương để tìm kiếm mức thu nhập và chế độ hấp dẫn hơn.

Trong khi đó, nhiều nghề truyền thống đòi hỏi sự tỉ mỉ và tính kiên nhẫn nhưng điều kiện làm việc khó khăn, thiếu thốn do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; nguồn vốn ít, thu nhập hạn chế, không ổn định; các chế độ về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động làng nghề chưa được quan tâm đúng mức...

Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong các làng nghề còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông hoặc theo hình thức truyền nghề. Công tác dạy nghề truyền thống chưa phát huy hiệu quả tại các làng nghề; các mô hình đào tạo nghề vẫn chưa thu hút được lao động nông thôn tham gia, chất lượng đào tạo còn hạn chế và thiếu bền vững.

Năm 2021, Chính phủ đã phê duyệt "Chương trình Bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030", nhằm bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề, gìn giữ và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của làng nghề Việt Nam.

Cụ thể, đến năm 2025, khôi phục và bảo tồn được ít nhất 56 nghề truyền thống và 85 làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền; công nhận mới 116 nghề và 40 làng nghề truyền thống, phát triển 181 làng nghề gắn với du lịch; trên 70% làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động hiệu quả.

Bên cạnh đó, 80% người lao động trong làng nghề được đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề, an toàn lao động và kiến thức công nghệ thông tin cơ bản; ít nhất 50% làng nghề truyền thống có sản phẩm được phân hạng theo Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP).

Đến năm 2030, khôi phục và bảo tồn ít nhất 129 nghề truyền thống và 208 làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền; công nhận mới 213 nghề và 96 làng nghề truyền thống, phát triển khoảng 301 làng nghề gắn với du lịch.

Trên 80% làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động hiệu quả; 100% người lao động trong làng nghề được đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề, 100% cơ sở, hộ gia đình sản xuất đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường.

Tùng Dương

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-de-giu-lua-lang-nghe-post407031.html
Zalo