Phát triển kinh tế biển xanh: Cần 'lá chắn công nghệ mới' cho ngành thủy sản
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh phát triển thủy sản bền vững, có trách nhiệm, thân thiện với môi trường là xu hướng tất yếu của quá trình đưa ngành thủy sản Việt Nam hội nhập với quốc tế.

Phát triển kinh tế biển xanh, bền vững. (Nguồn ảnh: TTXVN)
Cho rằng đầu tư vào một nền kinh tế biển bền vững không chỉ là điều đúng đắn mà còn là một chiến lược kinh tế thông minh, nhiều ý kiến chuyên gia, cơ quan quản lý và tổ chức quốc tế nhấn mạnh ngành thủy sản và các địa phương có biển trên cả nước cần tăng cường kiểm soát chất thải, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số, cùng với huy động sự tham gia của toàn xã hội, để tạo ra các sản phẩm thủy sản Việt Nam chất lượng, giá trị cao.
Đây cũng là nền tảng quan trọng góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển xanh, để Việt Nam sớm trở thành quốc gia biển mạnh.
Nhiều thách thức về ô nhiễm môi trường
Chia sẻ tại Hội nghị về bảo vệ môi trường trong các hoạt động thủy sản năm 2025, diễn ra sáng 26/11 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh phát triển thủy sản bền vững, có trách nhiệm, thân thiện với môi trường là xu hướng tất yếu của quá trình đưa ngành thủy sản Việt Nam hội nhập với quốc tế.
Phát triển thủy sản bền vững cũng phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong việc giải quyết các thách thức nghiêm trọng của toàn cầu về biến đổi khí hậu, môi trường, sự suy giảm của các hệ sinh thái tự nhiên, hướng đến mục tiêu phát triển xanh.
Tuy vậy, theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong giai đoạn 2022-2025, hoạt động bảo vệ môi trường thường chỉ được lồng ghép với các hoạt động khác, nên kết quả còn thiếu đồng bộ; ngân sách nhà nước bố trí cho các hoạt động bảo vệ môi trường trong lĩnh vực thủy sản rất hạn chế.
Bên cạnh đó, cán bộ công tác bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học trong lĩnh vực thủy sản còn phải kiêm nhiệm, nên chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai thực hiện tại một số địa bàn (đặc biệt ởcác địa phương ven biển); công tác phối hợp giữa các lực lượng chưa thường xuyên, công tác trao đổi thông tin chưa được kịp thời.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu. (Ảnh: HV/Vietnam+)
Ngoài ra, việc xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học trong lĩnh vực thủy sản chưa đạt kết quả cao, chưa thể hiện tính răn đe. Đối với các dự án viện trợ, quy trình phê duyệt các dự án viện trợ kéo dài, mất nhiều thời gian - đôi khi làm mất tính “thời điểm” nhất là đối với các dự án về công nghệ, mùa vụ của sản xuất.
Chia sẻ từ góc độ quốc tế, bà Ramla Khalidi - Trưởng đại diện Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, cũng nhấn mạnh ngành thủy sản và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Ngành tạo ra kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ đô la mỗi năm, hỗ trợ sinh kế của hàng triệu người dân, và kết nối cộng đồng từ vùng núi phía Bắc đến Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, theo bà Ramla Khalidi, thành công đó cũng đi kèm với những “đánh đổi” nhất định. Đó là ô nhiễm nguồn nước, chất thải từ nuôi trồng thủy sản và lượng rác thải nhựa ngày càng gia tăng đang tạo áp lực lớn lên hệ thống sông ngòi, bờ biển và đại dương. Nhiều hệ sinh thái quan trọng bị suy thoái, chất lượng nước đang bị đe dọa, và năng suất sinh học biển lâu dài đang đứng trước rủi ro.
“Đây là vấn đề tác động đến tất cả chúng ta,” bà Ramla Khalidi nhấn mạnh và cho biết các thách thức về bảo vệ đại dương hiện nay cũng còn lớn, bởi hạ tầng bảo vệ môi trường còn hạn chế; sản xuất vẫn còn manh mún; công nghệ sạch chưa được áp dụng rộng rãi; và gánh nặng rác thải - đặc biệt là nhựa tiếp tục tăng.
Quốc tế cam kết đồng hành cùng Việt Nam
Để vượt qua những thách thức trên, Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam - bà Ramla Khalidi cho rằng Việt Nam cần đầu tư bền vững hơn thông qua xây dựng hệ thống quan trắc hiện đại, tăng cường phối hợp liên ngành, trao quyền cho cộng đồng và thúc đẩy khu vực tư nhân coi phát triển bền vững là cơ hội, chứ không phải chi phí.
Về định hướng hợp tác trong thời gian tới, bà Ramla Khalidi cho biết UNDP đang hợp tác với các đối tác nhằm tăng cường quan trắc số, giảm thiểu rác thải nhựa trên biển thông qua mô hình kinh tế tuần hoàn, mở rộng các giải pháp dựa vào thiên nhiên và thúc đẩy quản trị môi trường dựa vào cộng đồng để củng cố ngành thủy sản Việt Nam bền vững và theo đuổi các kết quả của COP30.
“Tôi xin một lần nữa khẳng định cam kết mạnh mẽ của UNDP trong việc hỗ trợ Việt Nam bảo vệ hệ sinh thái biển, tăng cường quản trị môi trường và đảm bảo sinh kế bền vững cho hàng triệu người phụ thuộc vào lĩnh vực này,” bà Ramla Khalidi nói.

Khai thác gắn với bảo tồn nguồn lợi thủy sản. (Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN)
Tại hội nghị, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Canada tại Việt Nam Jim Nickel, cũng nhấn mạnh một đại dương khỏe mạnh là nền tảng cho sinh kế vững mạnh và một nền kinh tế biển xanh bền vững, đảm bảo cho các thế hệ tương lai được thừa hưởng hệ sinh thái biển phong phú và các cộng đồng ven biển thịnh vượng.
Về phần mình, đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết trong giai đoạn 2026-2030, ngành sẽ thực hiện chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc triển khai Đề án bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản tại địa phương; chủ động tham gia tiến trình đàm phán, nội luật hóa, thực thi các Điều ước quốc tế mà Việt Nam phê chuẩn trong đó có liên quan tới lĩnh vực thủy sản; kêu gọi viện trợ, triển khai có hiệu quả thiết thực các dự án để thúc đẩy các hoạt động sản xuất thủy sản thân thiện với môi trường.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với các đối tác thông qua cơ chế hợp tác PPP, ký kết thỏa thuận hợp tác, phối hợp với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, hiệp hội, hội, doanh nghiệp, viện, trường,... để triển khai đề án hiệu quả./.































