Phát triển GD đến 2030, tầm nhìn đến 2045: Sẵn sàng cho tầm nhìn, mục tiêu mới
UBND nhiều tỉnh, thành phố đã xây dựng kế hoạch triển khai, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương...

Cô trò Trường THCS Thọ Sơn (TP Việt Trì, Phú Thọ). Ảnh minh họa: INT
Căn cứ nội dung Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, UBND nhiều tỉnh, thành phố đã xây dựng kế hoạch triển khai, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Ông Thái Văn Thành - Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An: Triển khai Chiến lược từ nền tảng sẵn có

Ông Thái Văn Thành.
Nghệ An là tỉnh đầu tiên trong cả nước phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững giáo dục và đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (tại Quyết định 2124/QĐ-UBND ngày 22/7/2022).
Chiến lược đã xác định tầm nhìn “Phát triển hệ thống cơ sở GD-ĐT trên địa bàn tỉnh Nghệ An đạt chuẩn quốc gia, khu vực và quốc tế; có vị thế, uy tín trong hệ thống giáo dục quốc gia và khu vực; trở thành trung tâm đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp; có khả năng đáp ứng nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy năng lực cạnh tranh và sự thịnh vượng của tỉnh, sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc. Đến năm 2045, Nghệ An trở thành trung tâm GD-ĐT của khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước”.
Chiến lược đề ra 3 nhiệm vụ và giải pháp đột phá. Trong đó, chủ động hợp tác, kết nối về phát triển GD-ĐT nguồn nhân lực, đặc biệt về chuyển đổi số ngành Giáo dục trên địa bàn tỉnh, đảm bảo mục tiêu kép vừa thay đổi hình thức hoạt động quản lý; quản trị và dạy học, vừa đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao hình thành chính quyền số; kinh tế số và xã hội số.
Sau 3 năm triển khai Chiến lược phát triển bền vững, giáo dục Nghệ An từng bước khẳng định vị thế trong cả nước. Đáng chú ý việc tiên phong tham mưu được hệ thống cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh về GD-ĐT; đồng bộ phát triển từ giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên, đến giáo dục nghề nghiệp, đại học; hình thành nhiều mô hình đột phá nâng cao chất lượng GD-ĐT, bứt phá được xếp top đầu trong các tỉnh, thành.
Đến nay, rà soát các mục tiêu, chỉ tiêu, 3 nhiệm vụ, giải pháp đột phá phát triển và 3 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu (theo Quyết định 2124/QĐ-UBND ngày 22/7/2022) cơ bản phù hợp với yêu cầu cụ thể hóa triển khai Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Quyết định 1705/QĐ-TTg ngày 31/12/2024.
Tỉnh tiếp tục tham mưu bổ sung triển khai những chủ trương mới về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, sẵn sàng bước vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc; từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học trên địa bàn tỉnh.
Ông Phùng Quốc Lập - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Phú Thọ: 8 nhiệm vụ, giải pháp để đưa Phú Thọ đứng trong tốp đầu

Ông Phùng Quốc Lập.
Trong những năm qua, GD-ĐT tỉnh Phú Thọ có nhiều chuyển biến tích cực về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn không ít khó khăn, bất cập.
Phát huy thành tích đã đạt được, khắc phục hạn chế và tiếp tục thực hiện đổi mới GD-ĐT theo hướng thực chất, hiệu quả, nâng cao hơn nữa chất lượng GD-ĐT nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới, việc xây dựng và thực hiện Đề án Phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2025 - 2035 là cần thiết.
Hiện Đề án này được địa phương dự thảo. Mục tiêu đưa ra là hướng tới phát triển GD-ĐT theo hướng đồng bộ, toàn diện, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa gắn với Quy hoạch tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phấn đấu Phú Thọ trở thành trung tâm GD-ĐT có chất lượng cao của các tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Để thực hiện mục tiêu đề ra, địa phương dự kiến 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, gồm: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội về phát triển GD-ĐT; hoàn thiện cơ chế, chính sách; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về GD-ĐT; củng cố, phát triển mạng lưới cơ sở GD-ĐT đáp ứng nhu cầu học tập của người học, đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục; phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục bảo đảm đủ số lượng và nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT;
Sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục; tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng tài sản công; đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp, kỹ thuật dạy học; kiểm tra, đánh giá nâng cao chất lượng GD-ĐT; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục quốc phòng và an ninh; giáo dục thể chất, y tế trường học; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phát huy vai trò giám sát của các tổ chức xã hội và người dân; xử lý nghiêm các tổ chức, đơn vị, cá nhân vi phạm trong lĩnh vực GD-ĐT; tăng cường hội nhập quốc tế trong GD-ĐT.
Bên cạnh các giải pháp của địa phương, ngành GD-ĐT Phú Thọ đề nghị Quốc hội xem xét, sớm ban hành Luật Nhà giáo để có chính sách tổng thể, tạo điều kiện phát triển đội ngũ một cách toàn diện; trong đó có chính sách tiền lương, phụ cấp phù hợp cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành Giáo dục. Đề nghị Trung ương xem xét, không thực hiện tinh giản biên chế đối với giáo viên các cấp học; tiếp tục triển khai lộ trình giao bổ sung biên chế nhằm đảm bảo tỷ lệ giáo viên theo quy định, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT.
Đề nghị Chính phủ tăng cường đầu tư, hỗ trợ ngân sách Trung ương để địa phương triển khai hiệu quả việc sắp xếp, tổ chức lại cơ sở giáo dục theo yêu cầu của Đề án đảm bảo cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2017 - 2025.
Với Bộ GD&ĐT, đề nghị xem xét sửa đổi Thông tư 20/2023/TT-BGDĐT ngày 30/10/2023. Thông tư 20 quy định định mức số lượng giáo viên các trường theo số học sinh trên lớp là chưa phù hợp thực tiễn của các địa phương.
Đối với Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, đề nghị nghiên cứu, có chính sách hỗ trợ, nâng mức hỗ trợ cho giáo viên mầm non hợp đồng để giáo viên đảm bảo cuộc sống, yên tâm công tác, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tăng định mức hỗ trợ chi chuyên môn nghiệp vụ (nhóm II) cho các trường mầm non, tiểu học, THCS tính theo định mức đơn vị trường (để cho các trường quy mô nhỏ có đủ kinh phí chi dịch vụ thiết yếu điện, nước, công tác phí, văn phòng phẩm,…) và sau đó theo định mức học sinh cho các hoạt động chuyên môn.
Ông Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Đắk Nông: Bảo đảm nguồn lực cho phát triển giáo dục

Ông Phan Thanh Hải.
UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn. Mục tiêu đặt ra là xây dựng và phát triển giáo dục tỉnh Đắk Nông, hiện đại, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn minh nhân loại, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Đảm bảo đến năm 2030, mọi người dân đều có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận hệ thống giáo dục mở, đa dạng, linh hoạt, liên thông, hiện đại với nhiều mô hình, phương thức và trình độ đào tạo.
Để đạt mục tiêu đề ra, Đắk Nông sẽ tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về GD-ĐT; đổi mới quản lý giáo dục và quản trị nhà trường; thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục; phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của người dân; đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục; phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; bảo đảm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và tăng cường chuyển đổi số trong giáo dục và tăng cường hội nhập quốc tế.
Tỉnh sẽ tổ chức rà soát các cơ chế, chính sách của địa phương không còn phù hợp, không bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ liên quan đến đầu tư, tài chính, tài sản công, ngân sách Nhà nước và tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức trong các cơ sở giáo dục công lập, chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng và thuế đối với tất cả cơ sở giáo dục, chính sách xã hội hóa giáo dục.
Từ đó, tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới bảo đảm đúng quy định và phù hợp với tình hình thực tế; tạo động lực thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trong mạng lưới cơ sở giáo dục công lập và tư thục, khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư phát triển giáo dục.
Bảo đảm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục được quan tâm. Trong đó, bố trí ngân sách Nhà nước chi cho GD-ĐT bảo đảm đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách Nhà nước theo quy định và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo.
Ngân sách Nhà nước bảo đảm kinh phí cho giáo dục bắt buộc, giáo dục phổ cập, xóa mù chữ, phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông, các nhiệm vụ trọng điểm, chương trình mục tiêu, ngành nghề mũi nhọn; ưu tiên đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Cùng với đó, thực hiện cơ chế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ giáo dục theo kết quả đầu ra. Thực hiện cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch vụ đào tạo.
Tiến tới bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và tư thục. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích cộng đồng, xã hội tham gia phát triển giáo dục, nhất là đầu tư phát triển các loại hình cơ sở giáo dục tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội, đặc biệt là loại hình tư thục chất lượng cao và không vì lợi nhuận.
Tỉnh cũng sẽ tăng cường huy động và thu hút các nguồn lực cho phát triển giáo dục. Khuyến khích hình thành quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo có thành tích học tập tốt. Triển khai chương trình tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non và phổ thông bảo đảm điều kiện tối thiểu thực hiện chương trình. Đồng thời, tích hợp các mục tiêu tăng cường cơ sở vật chất trường, lớp học vào chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh.
Tiếp tục đầu tư xây dựng trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Huy động đa dạng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi, viện trợ không hoàn lại, vốn đầu tư, tài trợ của tổ chức, cá nhân và các nguồn kinh phí hợp pháp khác; phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn đầu tư công để gia tăng thu hút các nguồn lực xã hội cho phát triển các cơ sở giáo dục.