Phân lập chất chữa ung thư từ cây riềng
Lần đầu tiên cây riềng Việt Nam được nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học...

Cây riềng chứa hoạt chất chống ung thư.
Xác định thành phần của 7 hợp chất quý
Nghiên cứu thành phần hóa học, khả năng kích hoạt enzyme caspase và định hướng tạo chế phẩm có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư từ cây riềng Việt Nam là đề tài nghiên cứu của TS Nguyễn Thanh Trà và cộng sự, Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Theo nhóm nghiên cứu, riềng có tên khoa học Alpinia officinarum là cây thân thảo thuộc họ gừng. Ngoài chức năng sử dụng làm gia vị, trong Đông y, cây riềng được dùng như một vị thuốc có khả năng kháng viêm, giúp sát trùng vết thương, thải độc, thanh lọc cơ thể, chống oxy hóa, ngăn ngừa sự lão hóa của não bộ, ngăn ngừa ung thư vú...
Trong nghiên cứu thực hiện hai năm (2022 - 2024), các nhà khoa học tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phân lập, xác định cấu trúc của 7 hợp chất bao gồm 2 flavone, 3 flavanone và 2 chalcone. Đồng thời chưng cất, xác định thành phần hóa học của tinh dầu lá và rễ cây riềng Việt Nam.
Nhóm nghiên cứu đã thử hoạt tính sinh học invitro của các cặn chiết, chất sạch phân lập được bao gồm hoạt tính gây độc tế bào, kháng viêm, chống oxy hóa và tiểu đường.
Theo TS Nguyễn Thanh Trà, đây là lần đầu tiên cây riềng Việt Nam được nghiên cứu thành phần hóa học, hoạt tính sinh học bằng phân lập và xác định cấu trúc của 7 hợp chất. Đây cũng là lần đầu tiên nghiên cứu tạo chế phẩm có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư từ cây riềng.
Nhóm nghiên cứu đã thu mẫu cây riềng Việt Nam (bao gồm cả phần trên mặt đất và dưới mặt đất) ở TP Huế để nghiên cứu thành phần hóa học. Khi phân lập thành công hoạt chất, nhóm đã thử hoạt tính sinh học invitro của các cặn chiết, chất sạch bao gồm hoạt tính gây độc tế bào, kháng viêm, chống oxy hóa và tiểu đường.
Thử nghiệm độc tính cho thấy chế phẩm không gây độc theo đường uống khi thử tới liều 5.000 mg/kg thể trọng. Chế phẩm đã được thử khả năng ức chế sự phát triển của khối u trên mô hình chuột thí nghiệm.
Chế phẩm có tác dụng ức chế được 25,72% thể tích khối u ở liều 500 mg/kg thể trọng. Kết quả, nhóm đã định lượng chất chính, trong đó hàm lượng flavonoid tổng số của chế phẩm là 15,73%.
Hoạt chất gây độc tế bào ung thư
TS Nguyễn Thanh Trà cho biết, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được quy trình tạo chế phẩm quy mô 1kg nguyên liệu khô/mẻ; Điều chế được 58,4g chế phẩm từ cặn chiết EtOAc của cây riềng Việt Nam và xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho chế phẩm.
Với nghiên cứu này, lần đầu tiên đã phân lập và xác định được cấu trúc hóa học của 7 hợp chất flavonoid từ cây riềng Việt Nam bao gồm 2 hợp chất flavone quercetin3-O-α-L-rhamnosyl (12)-α-L-rhamnoside (A1) và diosmetin (A2), 3 hợp chất flavanone pinocembrin (A3), alpinetin (A4) và 5-O-methylnaringenin (A5), 2 hợp chất chalcone cardamonin (A6) và helichrysetin (A7).
Trong đó, hai hợp chất chalcone A6, A7 thể hiện hoạt tính gây độc tế bào đối với 4 dòng tế bào ung thư biểu mô (KB), ung thư vú (MCF7), ung thư phổi (A549) và ung thư gan (HepG2). Đặc biệt, hợp chất A7 ức chế mạnh tế bào ung thư A549 với giá trị IC50 là 6,81 µM.
Riềng có nguồn gốc từ các nước châu Á, được đưa vào y học cổ truyền với tên gọi là cao lương khương. Thân rễ riềng chứa một lượng nhỏ calo và các chất dinh dưỡng khác. Riềng được phát hiện là có tác dụng tích cực đáng kể đối với các loại ung thư khác nhau, cũng như giảm các dạng viêm mãn tính thậm chí còn hơn cả các loại thuốc chống viêm.
Trên thế giới, các loài thực vật thuộc chi Riềng (Alpinia) được sử dụng rất phổ biến trong y học dân gian. Chi Alpinia, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae), bao gồm khoảng 250 loài chủ yếu phân bố ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á.
Một số ít loài cũng được tìm thấy ở Australia và các đảo Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tại Việt Nam chỉ ghi nhận được 37 loài. Các thực vật chi Alpinia được sử dụng trong y học cổ truyền dân tộc để chữa trị nhiều bệnh lý khác nhau như loài Alpinia officinarum Hance, Alpinia galanga (L.) Willd., và nhiều loài khác.
Ở nước ta, các loài Alpinia phân bố rộng rãi từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, nhiều loài mới chỉ được biết đến trong những năm gần đây hoặc được sử dụng trong y học dân gian mà chưa được nghiên cứu đầy đủ về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học. Trong số các loài thuộc chi Alpinia, riềng Việt Nam (Alpinia vietnamica) là một loài mới được tìm thấy ở miền Trung Việt Nam.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về cây riềng Việt Nam tập trung chủ yếu vào việc liệt kê, mô tả hoặc tổng hợp các kinh nghiệm dân gian, chưa có nghiên cứu nào về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học.
Đây là lần đầu tiên cây riềng Việt Nam được nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học góp phần khai thác hiệu quả nguồn dược liệu tự nhiên vào chăm sóc sức khỏe. Nghiên cứu được hội đồng nghiệm thu kết quả xuất sắc.
Thời gian tới, nhóm sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về các hoạt tính gây độc tế bào, hoạt tính chống oxy hóa và hoạt tính ức chế enzym α-glucosidase của các hợp chất sạch phân lập được; tiếp tục tiến hành thử nghiệm các hoạt tính sinh học dạng mô hình invivo, invitro, góp phần làm sáng tỏ tác dụng dược học của loài này.