Phá rào cản, tạo bệ phóng để kinh tế tư nhân khẳng định vị thế
Để kinh tế tư nhân phát triển xứng tầm, cần đổi mới tư duy và thống nhất nhận thức, coi đây là những giải pháp mang tính toàn diện, tạo nền tảng cho sự bứt phá.
Lực lượng nòng cốt của nền kinh tế
Chặng đường 80 năm (1945-2025) xây dựng và phát triển kinh tế đất nước cũng là hành đồng hành, đóng góp tích cực của kinh tế tư nhân. Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, song đến nay, quan điểm, nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đã được quán triệt thống nhất trong toàn thể hệ thống chính trị, các cấp, các ngành.
Gần bốn thập niên sau Đổi mới (từ năm 1986) khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành lực lượng quan trọng trong tăng trưởng của Việt Nam. Đến năm 2024, cả nước có hơn 940.000 doanh nghiệp tư nhân cùng khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh cá thể. Khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, trên 30% thu ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho hơn 40 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động toàn nền kinh tế. Với vai trò đó, kinh tế tư nhân hiện là khu vực cung cấp việc làm và sinh kế lớn nhất, đồng thời giữ vị trí ngày càng quan trọng trong phát triển đất nước.

Kinh tế tư nhân là đòn bẩy cho Việt Nam phát triển thịnh vượng. Ảnh minh họa.
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc gia, là lực lượng nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam; tư tưởng "trọng công hơn tư" được loại bỏ, nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước là “phục vụ, trân trọng” thay vì định kiến, hẹp hòi, mở ra kỷ nguyên mới cho phát triển kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao năm 2030 và thu nhập cao năm 2045”.
Đặc biệt, Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 4/5/2025 với tư duy đột phá, tạo bước ngoặt lịch sử cho sự phát triển của kinh tế tư nhân; trong đó khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững.
Phân tích lợi ích mang lại cho quốc gia cũng như cho chính doanh nghiệp, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế nhấn mạnh, khu vực kinh tế tư nhân vừa là một động lực tăng trưởng, vừa là lực lượng góp phần san sẻ gánh nặng với Nhà nước. Theo ông, những năm qua, nhiều tập đoàn tư nhân lớn đã mạnh dạn đầu tư hàng tỷ USD vào phát triển hệ thống hạ tầng chiến lược, từ giao thông, năng lượng cho đến các khu công nghiệp, logistics. Đây vốn là những lĩnh vực trước kia phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước nhưng nay đã có sự đồng hành hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân, giúp tối ưu hóa nguồn lực xã hội và giảm áp lực chi tiêu công.
Một lợi thế quan trọng khác của khu vực tư nhân, theo vị chuyên gia là không bị ràng buộc bởi cơ chế quản lý phức tạp như doanh nghiệp nhà nước. Chính sự linh hoạt này cho phép các doanh nghiệp tư nhân dễ dàng điều chỉnh chiến lược, nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới và đáp ứng yêu cầu của thị trường toàn cầu. Nhờ đó, doanh nghiệp tư nhân thường có khả năng tối ưu hóa dòng vốn tốt hơn với tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư thường cao hơn mức trung bình.
Điều này vừa mang lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp khi gia tăng năng lực cạnh tranh và củng cố vị thế, vừa còn tạo ra lợi ích gián tiếp cho nền kinh tế nói chung. Nguồn thu ngân sách gia tăng, việc làm mới được tạo ra, đồng thời sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế cũng được nâng lên.
“Như vậy, sự phát triển năng động của kinh tế tư nhân vừa là lợi ích của đất nước, vừa là lợi ích của chính doanh nghiệp, tạo thành vòng xoáy tích cực thúc đẩy phát triển bền vững”, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nhấn mạnh.

Nghị quyết 68 tạo tiền đề cho một giai đoạn phát triển mới, nơi tư nhân không chỉ tham gia mà còn kiến tạo những công trình hạ tầng quy mô quốc gia. Ảnh minh họa.
Đổi mới tư duy để kinh tế tư nhân phát triển xứng tầm
Theo TS Cấn Văn Lực, nếu giai đoạn đầu Đổi mới, kinh tế tư nhân chỉ giữ vai trò thứ yếu thì nay khu vực này đã bước vào bước ngoặt quan trọng. Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã khẳng định rõ vị trí trụ cột của khu vực này trong nền kinh tế. Tuy nhiên, theo ông, để kinh tế tư nhân phát triển xứng tầm, cần đi đôi với đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức là những giải pháp toàn diện và mang tính đột phá, tạo nền tảng cho sự bứt phá trong kỷ nguyên mới, cụ thể:
Thứ nhất, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Thực hiện hiệu quả “bộ tứ trụ cột”, trong đó có Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân và các chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân tăng tính tự chủ, tự lực, tự cường và tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu của doanh nghiệp tư nhân nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam nói chung;
Sớm sửa đổi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá phù hợp chuẩn mực quốc tế. Định kỳ hàng năm nên rà soát, đánh giá các chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp nói chung báo cáo các cấp có thẩm quyền về tình hình triển khai và đề xuất điều chỉnh các chỉ tiêu kịp thời, phù hợp đảm bảo khả năng hoàn thành; tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý cho kinh tế xanh, kinh tế số như cơ chế thử nghiệm (Sandbox) cho kinh tế tuần hoàn và các mô hình kinh doanh mới.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp. Sớm ban hành Nghị định về chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp siêu nhỏ với thủ tục đơn giản, mô hình quản trị gọn nhẹ, đồng thời hỗ trợ kỹ năng quản trị, kế toán và ứng dụng công nghệ. Ngoài ra, cần tăng cường cung cấp thông tin về chính sách, thị trường và hỗ trợ kết nối giữa hộ kinh doanh với doanh nghiệp lớn, hợp tác xã.
Thứ ba, giải pháp hỗ trợ công nghệ, tài chính, tiếp cận đất đai, chuyển đổi xanh và số của khu vực tư nhân. Theo đó, cần phát triển thị trường vốn, đa dạng hóa sản phẩm tài chính, thành lập quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước, đồng thời phát huy vai trò của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc khởi tạo lại quỹ bảo lãnh tín dụng cũng được xem là cần thiết để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao khả năng cạnh tranh;
Thực hiện cơ chế đặt hàng đối với doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị tốt tham gia các dự án chiến lược, quan trọng quốc gia (cùng với đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước) như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, năng lượng, hạ tầng số, công nghệ cao, công nghiệp nền tảng...

Phát triển công nghiệp đường sắt, doanh nghiệp Việt có nhiều cơ hội làm chủ trên sân nhà. Ảnh minh họa.
Thứ tư, triển khai quyết liệt, hiệu quả cải thiện thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh, nhất là cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, 30% chi phí kinh doanh (gồm cả chi phí không chính thức) và 30% thời gian xử lý hồ sơ hành chính, hướng tới mục tiêu thuộc Top 3 ASEAN về môi trường kinh doanh trước năm 2030 (kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia); đặc biệt là nhất quán thực thi quy định “không hình sự hóa quan hệ kinh tế và dân sự” theo tinh thần Nghị quyết 66 và 68/NQ-TW.
Thứ năm, quan tâm hỗ trợ khối tư nhân về thông tin định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, về thông tin thị trường, dự báo thị trường, bối cảnh...; tăng cường truyền thông để khu vực kinh tế tư nhân tuân thủ, thượng tôn pháp luật; có cơ chế, chính sách bảo vệ kinh tế tư nhân trước những cú sốc kinh tế, nhất là trong bối cảnh bất ổn toàn cầu, suy thoái kinh tế và biến động thị trường.
Thứ sáu, bản thân doanh nghiệp, hộ kinh doanh cần đổi mới tư duy, nâng cao năng lực quản trị, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, bài bản, minh bạch hơn, quan tâm đến tầm nhìn, chiến lược dài hơi hơn, tương hỗ lẫn nhau nhiều hơn và đặc biệt nâng cao ý thức về phát triển trở thành doanh nghiệp dân tộc, luôn ý thức, hành động gắn với đạo đức kinh doanh, phát triển bền vững kinh tế xã hội đất nước, trách nhiệm xã hội và thượng tôn pháp luật.
Cuối cùng, cần chuẩn hóa thông tin, số liệu thống kê, báo cáo về các khu vực kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng để có thể hỗ trợ đắc lực cho quá trình ra quyết sách, quản trị và điều hành.
Việt Nam đặt mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp đến năm 2030, tương ứng 20 doanh nghiệp trên 1.000 người dân. Trong số đó, ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.