Phá điểm nghẽn nguồn nhân lực công nghệ
Nếu không sớm tháo gỡ điểm nghẽn về nguồn nhân lực lĩnh vực công nghệ, Việt Nam có nguy cơ đánh mất lợi thế trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.

Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực công nghệ
Số lượng đông, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu
Việt Nam có hơn 1,6 triệu lao động làm việc trong khoảng 75.000 doanh nghiệp công nghệ và tổ chức liên quan. Với quy mô dân số trên 100 triệu người, độ tuổi trung bình khoảng 32, riêng lĩnh vực công nghệ thông tin có khoảng 1,5 triệu lao động, tăng trưởng 10-12% mỗi năm, bổ sung khoảng 120.000 kỹ sư mới. Chi phí lao động tại Việt Nam hiện thấp hơn khoảng 25% so với mức trung bình toàn cầu, thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Theo ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng giám đốc FPT, Việt Nam có lợi thế lớn về nguồn nhân lực công nghệ, song đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng về chất lượng nhân lực vận hành công nghệ. Nguồn nhân lực không được trang bị kỹ năng số sẽ biến công nghệ thành gánh nặng, thay vì lợi thế.
“Không phải chúng ta thiếu người, mà là thiếu người biết làm việc với dữ liệu, AI và các hệ thống quản trị số”, ông Khoa nhấn mạnh.
Trong báo cáo mới đây, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận xét, những hạn chế kéo dài trong nâng cao nền tảng kỹ năng, thu hút và giữ chân nhân tài mũi nhọn, phát triển năng lực đổi mới sáng tạo và hạ tầng đang đe dọa làm chậm quá trình hiện thực hóa tham vọng phát triển của Việt Nam.
TS. Vũ Việt Anh, Trưởng cộng đồng Martech TECHFEST Việt Nam cho rằng, tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao đang diễn ra ở nhiều lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như AI, dữ liệu lớn và bán dẫn. Trong khi nhu cầu nhân lực tăng nhanh theo tốc độ đổi mới công nghệ, hệ thống đào tạo trong nước chưa theo kịp về chương trình, phương pháp và điều kiện thực hành. Nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, phải đào tạo lại, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Ông Phạm Vũ Quốc Bình, Phó cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thừa nhận, lực lượng lao động Việt Nam hiện đối mặt với khoảng cách kỹ năng lớn, trong khi nhân lực phục vụ chuyển đổi số còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và tổ chức có thể lên tới 2 triệu người vào năm 2030, đặc biệt thiếu hụt trong các lĩnh vực như AI, phân tích dữ liệu lớn, an ninh mạng và Internet vạn vật.
“Sự thiếu hụt này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành công nghệ cao, mà còn làm chậm tiến trình chuyển đổi số của toàn nền kinh tế”, ông Bình lo ngại.

Tìm lối ra cho bài toán nhân lực công nghệ
Từ thực trạng trên, TS. Vũ Việt Anh cho rằng, Việt Nam không thể chỉ dựa vào nội lực, mà cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực. Việc tiếp cận các chuẩn đào tạo tiên tiến, môi trường thực hành hiện đại và tri thức toàn cầu được xem là con đường ngắn nhất để thu hẹp khoảng cách giữa mục tiêu phát triển và năng lực thực tế.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Văn Khoa bổ sung, đào tạo nhân lực công nghệ trong các lĩnh vực như AI, bán dẫn hay công nghệ sinh học đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn và thời gian chuẩn bị dài. Nếu chỉ trông chờ vào cơ chế tự chủ, các cơ sở đào tạo khó mạnh dạn mở ngành do lo ngại đầu ra. Vì vậy, ông đề xuất Chính phủ giao chỉ tiêu đào tạo nhân lực công nghệ chiến lược cho các trường đại học, cao đẳng, nhằm giải quyết căn cơ bài toán nhân lực cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến lược đào tạo nội bộ, tăng cường liên kết với các viện, trường để thiết kế chương trình sát thực tiễn. Ông Khoa cũng kiến nghị Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ rõ ràng, dễ tiếp cận nhằm thúc đẩy đào tạo nhân lực số cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ - nhóm chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp cả nước.
Còn theo ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch Tập đoàn công nghệ CMC, khu vực tư nhân hiện chiếm tỷ trọng lớn trong nghiên cứu, đào tạo và phát triển công nghệ, đặc biệt thông qua các trường đại học tư thục.
“Việt Nam có thể trở thành quốc gia sáng tạo thông qua mô hình liên kết ‘ba nhà’ (Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp), với các không gian khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn chặt với doanh nghiệp”, ông Chính đề xuất. Theo đó, Nhà nước có thể quy hoạch các đô thị khoa học - công nghệ quy mô lớn tại các địa bàn trọng điểm, đồng thời xem xét giao các không gian khoa học công nghệ tại Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng cho các mô hình đại học - doanh nghiệp như CMC Uni nhằm thúc đẩy R&D, đào tạo và thương mại hóa công nghệ.
Ở góc độ doanh nghiệp công nghệ lớn đang triển khai nhiều nhóm công nghệ chiến lược quốc gia, ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Viettel thông tin, mô hình hợp tác “doanh nghiệp - nhà trường” đã được Viettel triển khai liên tục trong 5 năm qua, thông qua chương trình Viettel Digital Talent. Mỗi năm, Viettel tuyển chọn khoảng 500 sinh viên xuất sắc thực tập, nghiên cứu cùng các kỹ sư của tập đoàn; nhiều người trong số đó đạt giải thưởng cấp quốc gia và quốc tế.
Viettel đang đề xuất cơ chế công nhận thời gian thực tập tại doanh nghiệp như tín chỉ học tập, giúp sinh viên có môi trường học tập thực tiễn và doanh nghiệp sớm phát hiện, bồi dưỡng nhân tài. Song song đó, chương trình học bổng Viettel Excellence Scholarship cử nhân sự tiềm năng đi đào tạo tại các trường đại học hàng đầu thế giới, vừa tiếp cận tri thức toàn cầu, vừa chuẩn bị nguồn lực công nghệ chiến lược cho đất nước.
“Đặc biệt, Kết luận số 205 của Bộ Chính trị mới ban hành đã cho phép sử dụng ngân sách nhà nước bố trí khoảng 10% tổng quỹ tiền lương của năm để thu hút nhân tài. Đây thực sự là một giải pháp kịp thời, chắp cánh cho những doanh nghiệp như Viettel có thêm điều kiện mời những nhân sự xuất sắc trên thế giới về làm việc”, ông Tào Đức Thắng đánh giá.



































