Ông chủ trẻ xây đế chế drone số 1 thế giới
Khởi nguồn từ ước mơ thời thơ ấu của một cậu bé Trung Quốc muốn đơn giản hóa việc điều khiển trực thăng đồ chơi vào những năm 1990, công ty DJI ngày nay đã trở thành một đế chế drone có tầm ảnh hưởng trên khắp thế giới…

Frank Wang đã xây dựng một đế chế doanh nghiệp nắm giữ tới 70% thị phần drone toàn cầu. DJI vượt xa các đối thủ đến mức, dù xuất hiện nhiều lo ngại về địa chính trị và an ninh, Mỹ vẫn chưa hề cấm hoàn toàn sản phẩm của hãng. Bởi lẽ, đơn giản là chúng đang quá tốt và quá phổ biến để bị loại bỏ.
Nhưng 20 năm trước, khi Frank Wang làm rơi vỡ chiếc trực thăng mô hình đầu tiên của mình, chẳng ai nghĩ rằng anh sẽ trở thành người sáng lập một công ty Trung Quốc đầu tiên giữ vị thế dẫn đầu tuyệt đối trong một lĩnh vực công nghệ toàn cầu.
“CHIẾC TRỰC THĂNG ĐỎ” CỦA TUỔI THƠ
Frank Wang vốn là một người mơ mộng. Khi nhỏ anh say mê một cuốn truyện tranh thiếu nhi, nơi nhân vật chính bay khắp thế giới bằng một chiếc trực thăng đỏ. Từ đó, thứ anh khao khát nhất là một chiếc trực thăng mô hình.
Tuy học lực trung bình, Frank Wang vẫn cố gắng chăm chỉ để giữ lời hứa với bố mẹ là nếu có điểm tốt, anh sẽ được thưởng món đồ chơi mơ ước.
Frank đã có được một chiếc trực thăng đồ chơi đầu tiên, nhưng chuyến bay khởi động lại kết thúc trong thảm họa. Anh làm rơi nó ngay lập tức. Và hồi đó, trực thăng mô hình rất khó điểu khiển và chất lượng còn yếu kém.
Trải nghiệm đó đã in sâu vào tâm trí Frank Wang, thôi thúc anh theo đuổi kế hoạch tạo ra một chiếc trực thăng mô hình dễ điều khiển đến mức ai cũng có thể sử dụng được.
Tất nhiên, không có ngành học nào phù hợp với giấc mơ này, do đó Frank chọn ngành kỹ thuật điện tại Đại học Sư phạm Hoa Đông gần nhà. Nhưng rồi anh nhận ra chương trình học chẳng có chút liên quan gì đến việc chế tạo thiết bị bay.
Frank bỏ học năm thứ ba, nộp hồ sơ vào các trường đại học hàng đầu như MIT và Stanford nhưng đều bị từ chối. Chỉ Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong (HKUST) nhận anh vào ngành kỹ thuật điện - khoa học máy tính.
Ngay cả tại HKUST, không có khóa học nào về thiết bị bay. Chính vì vậy, Frank phải tự học bằng mọi cách và bắt đầu tham gia các cuộc thi robot. Nhóm của anh giành giải nhất ở Robocon Hồng Kông và giải ba khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Năm 2005, cho đồ án tốt nghiệp, Frank đề xuất xây dựng hệ thống điều khiển trực thăng mô hình dễ sử dụng. Giáo sư bác bỏ vì cho rằng đề tài quá phức tạp, đòi hỏi kiến thức liên ngành về hàng loạt biến số như hướng bay, vị trí, tốc độ… rõ ràng vượt quá khả năng của sinh viên đại học.
Frank không bỏ cuộc. Anh thuyết phục hai bạn cùng lớp có cùng đam mê tham gia nhóm. Cuối cùng giáo sư đồng ý, dù giải pháp họ theo đuổi còn chưa từng được kỹ sư chuyên nghiệp thực hiện. Nhóm nhận được khoản tài trợ 18.000 HKD. Ba người dồn mọi thời gian vào dự án. Đến ngày bảo vệ, chiếc trực thăng của Frank cất cánh nhưng không thể giữ ổn định, lắc lư rồi lao xuống trước mặt toàn bộ giảng viên và sinh viên. Frank nhận được điểm C.

Frank Wang trong một lần chạy thử UAV tại chính sân trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong
Nhưng thất bại ấy lại trở thành bước ngoặt lớn. Giáo sư Zexiang Li - người sau này trở thành “ân nhân” quan trọng nhất của Frank, đã nhận ra ở anh điều mà nhiều giảng viên không thấy, đó là sự kiên trì, sáng tạo và khả năng thực hành.
Bài trình bày thất bại càng thổi bùng đam mê của Frank. Nhóm tiếp tục cải tiến hệ thống điều khiển và đến tháng 1/2006, họ đã thành công. Chiếc trực thăng tự bay và hạ cánh với độ ổn định cao. Frank cuối cùng đã chế tạo được “chiếc trực thăng đỏ” của tuổi thơ.
Vì tò mò, anh đăng kết quả lên một diễn đàn máy bay mô hình và rao bán hệ thống với giá 50.000 NDT (khoảng 7.000 USD). Bất ngờ, có người sẵn sàng mua. Thấy cơ hội kinh doanh, Frank và hai người bạn thành lập công ty.
Tháng 3/2006, DJI ra đời, với kỳ vọng giản dị của Frank là “Nuôi được đội ngũ 10 - 20 người là tốt rồi”.
Thời điểm đó, UAV vẫn là thú chơi của giới đam mê. DJI tập trung sản xuất linh kiện, đặc biệt là hệ thống điều khiển. Frank cùng bạn bè chuyển đến Thâm Quyến, thuê căn phòng kho 20 mét vuông và dùng 200.000 NDT bố mẹ cho để khởi nghiệp.
Đó là khởi đầu đầy khiêm tốn của một đế chế tỷ đô.
NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẦY KHẮC NGHIỆT
Tuyển nhân sự là vấn đề lớn. Văn phòng tạm bợ, mức lương thấp khiến DJI khó thu hút người giỏi. Frank phải đào tạo mọi người từ đầu.
Đặc biệt, dù lương thấp nhưng yêu cầu của Wang thì rất cao. Anh thường xuyên làm việc xuyên đêm và mong đội ngũ cũng vậy. Chỉ cần có ý tưởng mới, anh gọi nhân viên bất kể giờ giấc. Với tính cầu toàn, anh đưa ra những hướng dẫn chi tiết nhưng có phần khắc nghiệt, như cách siết hàng trăm con ốc của UAV. Yêu cầu lại mơ hồ kiểu “dùng hai ngón tay, siết lực này”, dựa trên kinh nghiệm cảm tính. Điều này khiến đội ngũ căng thẳng cực độ.
Frank cũng không lắng nghe ý kiến nhân viên. Trong một lần trả lời Forbes, anh thừa nhận thời kỳ đầu từng chia cổ phần cho ba nhân viên nhưng dựa trên đóng góp cá nhân, dẫn đến bất mãn nảy sinh. Người được ít thì bỏ đi, người được nhiều thì xin chia lại cho công bằng. Frank từ chối: “Không, cậu cứ lấy nhiều hơn. Công ty này tôi quyết”.
Không quá ngạc nhiên khi đến năm 2007, toàn bộ đội ngũ, kể cả 2 nhà đồng sáng lập, đều bỏ đi, chỉ còn lại một nhân viên tạp vụ. Tệ hơn nữa, một cựu nhân viên còn lấy cắp thiết kế và tự bán ra thị trường. Frank muốn kiện nhưng không đủ 70.000 NDT chi phí luật sư.
Khi ước mơ gần như sụp đổ, anh tìm đến giáo sư Zexiang Li và đứng đợi hai giờ trước lớp học. Nghe xong câu chuyện, ông không chỉ cho lời khuyên, mà còn đưa ngay 70.000 NDT và giới thiệu thêm giáo sư Zhu Xiaorui của Đại học Công nghệ Cáp Nhĩ Tân, cùng rót tổng cộng 1 triệu NDT (khoảng 140.000 USD) cho DJI. Thậm chí, khóa nghiên cứu sinh robot đầu tiên của giáo sư Li vừa tốt nghiệp, ông hướng nhiều người vào DJI và nhận ghế Chủ tịch công ty.

Giáo sư Zexiang Li
Với vốn, nhân tài và ban lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, DJI có điều kiện để vươn lên.
Nhìn lại, công ty suýt sụp đổ vì sai lầm của chính Frank và được cứu bởi giáo sư Li. Đó là may mắn lớn.
Giáo sư Li không phải chỉ là một giảng viên bình thường. Ông là một trong những sinh viên Trung Quốc đầu tiên sang Mỹ học robot trong thập niên 1980, tại cả Carnegie Mellon và Berkeley, chứng kiến tận mắt khoảng cách công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc.
Ông từng nói: “Lợi thế dân số và lợi thế đi sau của Trung Quốc rồi sẽ cạn. Chúng ta phải chuyển từ sao chép sang dẫn đầu công nghệ”. Sau khi về Trung Quốc năm 1992, ông tham gia xây dựng HKUST, thiết kế các chương trình thúc đẩy ứng dụng thực tế, sáng lập Googol Technology trong lĩnh vực điều khiển chuyển động - chế tạo thông minh, đồng thời lập các phòng lab robot tại HKUST và HIT.
CUỘC CÁCH MẠNG TRONG NGÀNH UAV
Khi đã có nguồn lực, Frank nắm lấy cơ hội để triển khai tầm nhìn của mình.
UAV có ba thành phần cốt lõi, đó là hệ thống điều khiển bay, gimbal (chống rung camera), và truyền tín hiệu hình ảnh.
Truyền tín hiệu vừa phức tạp vừa ít nhu cầu, DJI chọn thuê ngoài, tập trung toàn lực vào điều khiển bay và gimbal.
Ước mơ của Frank là mang đến trải nghiệm bay UAV dễ dàng cho mọi người. Nhưng việc giữ ổn định trong lúc bay và lơ lửng rất khó. UAV cần cảm biến chính xác cao để xử lý hướng, vị trí, tốc độ; phải chịu được nhiễu từ gió và từ trường; cần các thuật toán hiệu chỉnh sai số và mô hình bay phức tạp cho các động tác nâng cao.
DJI cùng đội ngũ kỹ sư hàng đầu bắt đầu chu kỳ thử nghiệm - lỗi - tai nạn… không đếm xuể.
Đến năm 2009, họ đã thành công phát triển nên hệ thống điều khiển XP3.1 cho phép UAV tự giữ ổn định một cách dễ dàng. Để chứng minh độ tin cậy, Frank và giáo sư Li đưa nó lên Everest, ghi lại những cảnh quay drone đầu tiên tại đỉnh núi này. Video gây tiếng vang lớn trong cộng đồng UAV.

Đội ngũ DJI thử nghiệm sản phẩm trên núi Everest
Cũng từ đó mà các đơn hàng ồ ạt đổ về công ty.
Tiếp theo là cuộc cách mạng gimbal.
Khi ấy, gimbal cơ học cho hình ảnh rung lắc. DJI phát triển gimbal dùng động cơ không chổi than, cho chống rung mượt mà - điều từng bị coi là không thể. Frank Wang thừa nhận mình phớt lờ logic kinh doanh, chỉ muốn tạo ra sản phẩm tuyệt vời mà anh thích. Sau ba năm điều chỉnh giữa cảm biến, hệ thống bay và chuyển động gimbal, họ mới đạt được chất lượng mong muốn.
Rồi cơ hội thị trường xuất hiện. Một nhà phân phối Australia cho biết trong khi điều khiển bay bán được 20 bộ/tháng, thì gimbal bán được tới 200 bộ, với phần lớn gắn lên UAV nhiều cánh chứ không phải trực thăng một cánh. Frank lập tức chuyển hướng. Tháng 9/2011, DJI tung ra Wookong - hệ thống điều khiển đa cánh ổn định vượt trội.
Đến 2010, thị trường UAV dần đông đúc, với sự tham gia của nhiều hãng lớn, nhưng công nghệ của DJI đã có chỗ đứng riêng.
Năm 2012, hãng ra mắt Zenmuse Z15 - gimbal động cơ không chổi than đầu tiên, thay đổi hoàn toàn lĩnh vực quay phim trên không. DJI lúc này đã cung cấp trọn bộ linh kiện tốt nhất ngành, thúc đẩy doanh thu vượt 100 triệu NDT (khoảng 14 triệu USD). Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu.
Bởi khi đó, UAV chủ yếu dành cho dân chơi mô hình, yêu cầu lắp ráp phức tạp, điều khiến người dùng phổ thông e ngại. Sau 6 năm nghiên cứu và phát triển, DJI đã đủ năng lực để làm drone của riêng mình. Họ dồn lực vào Phantom 1 - chiếc drone tiêu dùng đầu tiên chỉ cần cắm là chạy, có giá chỉ 1.000 USD.
Frank Wang nói rõ: “Tiêu dùng không nghĩa là rẻ, mà là chất lượng cao với mức giá ai cũng tiếp cận được. Phantom bay mượt đến mức người mới cũng dễ dùng”.
Có ý kiến cho rằng, điều mà Frank Wang làm với drone tương tự như điều Apple làm với smartphone - đó la biến sản phẩm kỹ thuật cao thành món đồ đại chúng. Cả Bill Gates và Steve Wozniak đều mua và khen ngợi Phantom.
Điều này chưa từng có tiền lệ trong lịch sử công nghệ Trung Quốc. Thay vì thống trị thị trường nội địa rồi mới ra quốc tế, DJI đi thẳng đến vị thế dẫn đầu toàn cầu.
Sau Phantom 1 (2013), DJI không dừng lại. Đến 2016, hãng tung ra sản phẩm mới gần như mỗi năm, nới rộng khoảng cách công nghệ. Doanh thu từ 2009 đến 2014 tăng gấp 3 - 4 lần mỗi năm, giúp drone trở nên phổ biến hơn.
Ngày càng nhiều phim điện ảnh, MV dùng drone DJI; khách hàng cá nhân cũng dùng để giải trí. Đến năm 2015, DJI gây chú ý khi một người say rượu làm rơi drone vào sân Nhà Trắng. Nhận thấy nguy cơ an ninh, DJI tự thiết lập vùng cấm bay trong phần mềm trước cả khi chính phủ yêu cầu.
Hiện tại, DJI vẫn là “gã khổng lồ” ngành drone với doanh thu hàng tỷ USD và sở hữu 70% thị phần toàn cầu. Washington nhiều lần muốn cấm DJI vì lý do an ninh, như từng làm với Huawei, như bất thành. Bởi lý do rất rõ rằng lực lượng cứu hỏa, công ty xây dựng, doanh nghiệp nông nghiệp đều đang sử dụng hệ sinh thái của thiết bị DJI và việc chuyển đổi quá tốn kém. Không hãng nào có sản phẩm và dịch vụ ngang bằng DJI.































