O Thu - người chèo đò qua dòng sông 'mưa đỏ' Thạch Hãn
Có những khoảnh khắc lịch sử, một dòng sông phản chiếu hình ảnh nước Việt Nam can trường trong những năm tháng khói lửa 1972 - sông Thạch Hãn. Giữa mưa bom bão đạn, những mái chèo kiên cường vẫn rẽ sóng, đưa bộ đội sang Thành cổ, chở theo cả niềm tin và ý chí quật cường của đất nước.
Trên con nước ấy, cô gái 18 tuổi Nguyễn Thị Thu (thường gọi là o Thu) cùng cha chồng tương lai - lão ngư Nguyễn Con - đã biến con đò nhỏ của gia đình ở bến làng Tiền thành nhịp cầu bí mật. Mỗi chuyến vượt sông là một lần đối diện cái chết nhưng cũng là một phần đóng góp thầm lặng cho bước tiến của dân tộc...

Nửa thế kỷ trôi qua, bà Nguyễn Thị Thu vẫn nâng niu bức ảnh cha con bà giữa dòng Thạch Hãn mùa hè đỏ lửa 1972.
81 ngày đêm và những chuyến đò
Năm 1968, khi Mỹ và quân đội Sài Gòn mở rộng căn cứ Ái Tử, cư dân làng Giang Hến, thị trấn Ái Tử (nay thuộc xã Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) bị cưỡng ép rời khỏi mảnh đất cha ông. Nhà cửa tan hoang, họ phải dắt díu nhau về làng Tiền, xã Triệu Giang (nay là xã Ái Tử, Quảng Trị), sống chen chúc trong cảnh nơm nớp giữa bom đạn. Chính trong bối cảnh ấy, Nguyễn Thị Thu bước vào tuổi 18 - cái tuổi đáng lẽ chỉ biết đến mái chèo, con cá, con hến, nhưng chiến tranh đã định đoạt cho chị một số phận khác.
Người dẫn dắt chị vào con đường cách mạng là cụ Nguyễn Con - lão ngư vừa dạm hỏi chị cho con trai mình. Ông không chỉ là cha chồng tương lai, mà còn là người thầy, người cha tinh thần, đưa chị vào hàng ngũ những người dám đem sinh mạng đặt trên dòng nước đỏ máu.
Ngày 28/6/1972, quân và dân ta tiến công, giải phóng Thành cổ Quảng Trị. Từ đó, sông Thạch Hãn trở thành huyết mạch nối hậu phương với chiến trường. Nhưng, cũng chính nơi này biến thành tọa độ chết, khi kẻ thù trút xuống hàng vạn tấn bom đạn. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, những chuyến đò bí mật và những con người thầm lặng trở thành cứu cánh. Cụ Con và chị Thu là hai trong số những người đã tình nguyện gánh vác sứ mệnh ấy.
Trở lại làng Giang Hến sau 18 năm, kể từ lần đầu tiên tôi quyết định đi tìm bà sau khi xem bức ảnh “Cha con lão ngư dân Triệu Phong chở bộ đội và vũ khí tiếp sức cho Thành cổ”, ngôi nhà cấp 4 xây từ hàng chục năm trước nay càng thêm cũ kỹ, xuống cấp. Ở tuổi 71, bà Thu đã già đi nhiều. Vóc dáng bà vẫn mập mạp, thần thái thì khi nhớ khi quên bởi căn bệnh tiền đình mãn tính; thêm chứng huyết áp cao và thoái hóa xương khớp khiến bước chân bà chậm chạp, nặng nề.
Trong câu chuyện, bà Thu lấy xuống bức ảnh treo trang trọng ở gian chính ngôi nhà, đặt ngay trước mặt như để mở đầu cho cả ký ức. Đó là bức ảnh “Cha con lão ngư dân Triệu Phong chở bộ đội và vũ khí tiếp sức cho Thành cổ” - tấm hình tư liệu đã đi cùng năm tháng. Tại Thành cổ Quảng Trị, bức ảnh này cũng được trưng bày ở một vị trí trang trọng, ngay bên phải lối vào tầng 1 của Bảo tàng Thành cổ.

Vợ chồng bà Nguyễn Thị Thu và ông Nguyễn Câu trong ngôi nhà nhỏ ở làng Giang Hến, Quảng Trị.
“Bắt đầu từ ngày 28/6/1972, hỏa lực từ các vị trí phía Nam sông dồn dập bắn sang, kéo dài từ Triệu Vân ven biển qua Triệu Trạch, Hải Phú cho đến tận Hải Lệ. Ngoài khơi, pháo hạm gầm rú, trên trời B-52 trút bom, cả Quảng Trị rung chuyển”, bà Thu nhớ lại. Những đêm trắng, pháo sáng quét loang loáng mặt sông. Trong ánh sáng chập chờn ấy, mái chèo của hai cha con vẫn kiên định cắm xuống nước, khua lên từng nhịp chắc nịch, đưa từng đoàn quân vượt sang bờ Nam.
Bà lặng nhìn bức ảnh, rồi trầm ngâm kể: “Bờ Bắc có nhiều bến, từ làng Tiền kéo dài lên tới xã Triệu Thượng, giáp ranh với Triệu Nguyên. Bộ đội chủ lực, dưới sự dẫn đường của bộ đội địa phương và dân quân du kích, chia thành nhiều nhóm để sang sông nhằm giảm thiểu thương vong. Tôi và cha tôi phụ trách ở bến làng Tiền. Từ đây qua chiến địa phía Nam xa hơn so với bến Bắc Nhan Biều (thôn Nhan Biều dưới, xã Triệu Thượng). Vì vậy, hễ ngớt bom đạn, chúng tôi lại chèo dọc sông, ngược lên đó để sang cho kịp”.
Bà không nhớ nổi mình đã chèo bao nhiêu chuyến, chỉ nhớ những đôi mắt lính Cụ Hồ rực sáng trong bóng tối, nhớ từng lần bom dội xuống, cả con sông bốc khói trắng xóa. Có những đêm, bộ đội nằm đè lên cha con bà để hứng mảnh bom. Có khi, cụ Con vùng dậy giữa tiếng nổ, cõng một thương binh vào hầm trú ẩn, mặc cho máu rịn đỏ vai áo.
Nhà báo Đoàn Công Tính khi ấy đã ghi lại khoảnh khắc giữa bom đạn: một lão ngư mình trần, gân guốc, khua mái chèo đưa thuyền vượt sóng; bên mạn thuyền là cô gái trẻ gầy guộc, ánh mắt kiên định, đôi tay nắm chắc khẩu súng. Đó chính là ông Con và chị Thu. Khi bức ảnh ra đời, chị Thu không hề hay biết mình ở trong khung hình, càng không ngờ rằng hình ảnh bình dị ấy lại trở thành biểu tượng bất tử, được nhắc lại và trân trọng suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Mỗi chuyến đò không chỉ chở người, chở đạn, chở lương thực mà còn chở theo niềm tin rằng Thành cổ phải được giữ bằng mọi giá. Bởi, mỗi ngày quân và dân ta trụ vững nơi ấy cũng là thêm một ngày Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có tiếng nói mạnh mẽ hơn trên bàn đàm phán Paris.

Bà Thu trước ngôi nhà cấp 4 cũ kỹ ở làng Giang Hến.
Ngôi nhà nhỏ bên bờ Thạch Hãn
Năm 1972, khi chị Thu ngày đêm chèo đò cùng cụ Nguyễn Con trên dòng Thạch Hãn, người chồng tương lai - anh Nguyễn Câu - buộc phải trốn biệt để tránh bị quân đội Sài Gòn bắt đi lính. Sau Hiệp định Paris, năm 1974, chị Thu và anh Câu mới nên duyên vợ chồng. Đất nước thống nhất, họ cùng gia đình bên nội trở về quê cũ ở làng Giang Hến. Ngôi nhà dựng tạm chỉ bằng tranh tre, quay mặt ra phía sông, nơi mở cửa là nghe tiếng nước vỗ bờ, tiếng gió kéo dài trên bãi cát. Vợ chồng trẻ sớm tối bươn chải bằng nghề cào hến trên chính “dòng sông mưa đỏ một thời”
Không lâu sau, cụ Nguyễn Con già yếu hẳn sau cả đời sông nước. Chị Thu làm dâu, vừa phụ chồng mưu sinh, vừa tận tình chăm nom cha chồng như chăm một người đồng đội. Rồi, cụ ra đi vì bệnh nặng. Cụ Nguyễn Thị Nghĩa - mẹ chồng chị - cũng mất không lâu sau đó.
Vợ chồng bà Thu có 4 con, 3 trai 1 gái. Người con út là anh Nguyễn Ngọc Phi hiện ở sát cạnh nhà cha mẹ. Phi từng học Cao đẳng Cầu đường 3 năm ở Đà Nẵng. Ra trường, anh đi làm vài năm nhưng chỉ được giao trông coi kho vật liệu giữa cánh đồng hoang cho một doanh nghiệp tư nhân. Đường nghề nghiệp bế tắc, Phi trở về quê, làm nghề bốc vác để nuôi gia đình. Vợ anh là giáo viên mầm non, đồng lương chỉ đủ quán xuyến chi tiêu tối thiểu. Ngày mưa lũ, con đường làng ngập sâu, vợ chồng trẻ vẫn gùi gạo, bồng con vượt nước. Cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng ngôi nhà nhỏ luôn ấm tiếng người.

Bức ảnh “Cha con lão ngư dân Triệu Phong chở bộ đội và vũ khí tiếp sức cho Thành Cổ Quảng Trị” do nhà báo Đoàn Công Tính chụp năm 1972.
Suốt nhiều năm, vợ chồng bà Thu và ông Câu vẫn bám nghề cào hến. Mỗi sớm, khi sương còn vương trên mặt sông, họ đã có mặt ở bãi, lội xuống làn nước lạnh, cào lên những giỏ hến lấp lánh phù sa. Với nhiều người, đó chỉ là kế sinh nhai. Với bà Thu, còn là một cuộc đi về với ký ức. Bà tin rằng dưới lớp bùn vẫn còn đâu đó dấu vết của những đồng đội năm xưa. Đôi tay lặn mò không chỉ tìm miếng ăn mà còn lần tìm một sợi dây vô hình nối về quá khứ. Nhưng, dòng sông thay đổi từng mùa. Giang Hến lại thấp trũng, mỗi năm nước lớn tràn qua vài lần, cuốn phăng mọi thứ nhỏ bé. Con sông cuối cùng vẫn đổ ra biển, cuốn theo cả những hy vọng mong manh về một cuộc tìm thấy.
Vài năm trở lại đây, sức khỏe bà Thu giảm sút rõ rệt. Bệnh tiền đình tái phát theo thời tiết, huyết áp thất thường, khớp gối đau nhức khiến bà không còn theo nổi nhịp lao động nặng nhọc. Vợ chồng bà đành gác mái chèo, sống dựa vào con cái cùng khoản trợ cấp hằng tháng dành cho bà với tư cách du kích, cộng thêm phụ cấp bệnh tật. Số tiền 2 triệu đồng mỗi tháng ít ỏi, nhưng giúp gia đình cầm cự qua những ngày trở gió. Người làng vẫn bảo, nhìn bà khỏe mạnh, mập mạp, ít ai ngờ trí nhớ đã hao hụt nhanh theo năm tháng. Mỗi khi trái gió trở trời, bà lại nhức đầu, chóng mặt, có khi phải vào bệnh viện cấp cứu. Những cơn đau đến rồi đi, như một tiếng vọng muộn màng từ trận địa cũ.
Dẫu sức khỏe suy giảm, thói quen tri ân chưa bao giờ gián đoạn. Từ sau hòa bình đến nay, cứ mỗi rằm, ba mươi hay mồng một Âm lịch, bà lại ghé Thành cổ thắp hương. Có khi bà ra bờ Thạch Hãn, chọn vài bông hoa cúc tươi, lặng lẽ thả xuống dòng nước. Những bông hoa trôi đi, lăn tăn ánh sáng, mang theo lời khấn thầm không thành tiếng. Ngày mưa, bà đứng ở thềm nhà nhìn mưa gột rửa bãi bồi. Ngày nắng, bà ngồi bên mành cửa, nghe tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tất cả gói trong một nếp sống kiệm lời, bền bỉ như bờ tre trước gió.
Buổi chiều, làng Giang Hến thật yên tĩnh, tôi đứng ở cửa nhà bà Thu nhìn ra. Mùa này dòng Thạch Hãn êm như tấm lụa. Nước trôi qua bờ cát, bâng khuâng như đếm từng viên sỏi. Trong ngôi nhà cấp 4 đã nhuốm màu thời gian, bức ảnh lão ngư và cô gái năm nào vẫn treo ngay gian chính. Bên cạnh là chiếc bàn gỗ cũ kỹ, cùng vài vật dụng đơn sơ nhưng nói được rất nhiều về một đời người.
Rời ngôi nhà nhỏ, tôi đi về phía bờ sông. Nắng cuối chiều rơi xuống mặt nước, một dải lấp lánh kéo dài đến tận khúc quanh. Tôi nghĩ về những bông hoa tươi thắm bà đã thả, về những nén hương đã đốt ở Thành cổ suốt mấy chục năm. Dòng sông vẫn trôi, vừa chở nặng quá khứ, vừa xoa dịu hiện tại. Ở đầu ngọn sóng ấy, một gia đình vẫn lặng lẽ bám đất bám sông, sống chậm mà bền, như cách người đưa đò năm xưa đã từng bám chèo giữa khói lửa. Và, tôi tin, chỉ cần con nước còn trong, trời còn xanh, những điều tử tế bà gửi gắm sẽ tự khắc tìm được đường về.