Nuôi cá lóc trên cát ở Quảng Trị: Khi sinh kế đổi đời gặp thách thức môi trường
Việc mở rộng nuôi cá lóc trên cát ồ ạt, thiếu quy hoạch và quản lý đang đe dọa rừng phòng hộ, nguồn nước và hệ sinh thái ven biển, đặt bài toán sinh kế-môi trường trước ngưỡng cửa bền vững.

Vùng cát ven biển thôn Bắc Hòa và Tân Hải, xã Cam Hồng chi chít những ao hồ nhân tạo, bao quanh bởi các mương thoát nước đen ngòm, bốc mùi hôi thối nồng nặc. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Hơn hai thập niên qua, nghề nuôi cá lóc trên cát ven biển Quảng Trị đã giúp hàng trăm hộ dân vùng bãi ngang thoát nghèo, tạo ra vùng kinh tế hàng trăm tỷ đồng mỗi năm.
Tuy nhiên, việc mở rộng ồ ạt, thiếu quy hoạch và quản lý đang đe dọa rừng phòng hộ, nguồn nước và hệ sinh thái ven biển, đặt bài toán sinh kế-môi trường trước ngưỡng cửa bền vững.
Sinh kế mới từ vùng cát trắng
Đầu năm 2000, khi khai thác thủy sản ven bờ không còn hiệu quả do nguồn lợi suy giảm và phương tiện lạc hậu, người dân Cam Hồng, Sen Ngư chuyển hướng: đào hồ trên cát nuôi cá nước ngọt. Ban đầu là cá rô phi, cá trắm vì dễ nuôi, chi phí thấp. Chỉ vài năm sau, cá lóc trở thành đối tượng nuôi chủ lực nhờ khả năng thích nghi tốt với vùng cát, ít dịch bệnh, tận dụng thức ăn từ cá vụn biển.
Tại thôn Bắc Hòa, xã Cam Hồng, ông Trần Kim Phi tiên phong đưa mô hình cá lóc về địa phương và thành công. Gia đình ông sở hữu 7 hồ lớn; trong đó 2 hồ nuôi cá đẻ, cung cấp giống cho hàng trăm hộ dân. Mỗi năm, ông tiêu thụ khoảng 4.000 tấn cá lóc thương phẩm.
Để nâng hiệu quả, ông thành lập Hợp tác xã thủy sản Kim Phi, xây dựng chuỗi khép kín từ sản xuất giống, cung ứng thức ăn, hướng dẫn kỹ thuật đến bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn thị trường.
"Hầu hết hộ dân tham gia liên kết đều thu nhập cao, ít rủi ro hơn so với nuôi tự phát," ông Phi chia sẻ.
Trong 200 hộ dân thôn Bắc Hòa, hơn 100 hộ nuôi cá lóc, mỗi hộ từ 1-5 hồ, diện tích từ 300-400 m2/hồ. Lợi nhuận bình quân mỗi vụ khoảng 30 triệu đồng/hồ. Nhiều hộ đã chuyển từ hồ sâu sang hồ cạn lót bạt, vừa tiết kiệm đất, vừa mở rộng diện tích.
Tại thôn Tân Hải, anh Võ Văn Khiêm nuôi 300m2 hồ, mỗi vụ thu khoảng 15 tấn cá, lãi 150 triệu đồng.
"So với đánh bắt ven bờ, nghề nuôi cá lóc trên cát cho thu nhập cao và ổn định hơn nhiều," anh Khiêm chia sẻ. Hiện nay, xã Cam Hồng có hơn 200 hộ và xã Sen Ngư có 100 hộ đang phát triển kinh tế theo mô hình nuôi cá lóc trên cát.
Nhờ mô hình này, Cam Hồng, Sen Ngư cung ứng khoảng 8.000 tấn cá lóc thương phẩm mỗi năm, doanh thu gần 400 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 30% xuống còn 10%. Nhiều tuyến đường nhựa, nhà kiên cố đua nhau mọc lên giữa vùng cát trắng, một sự thay đổi mà trước đây ít ai nghĩ tới.
Phát triển nóng và lỗ hổng quản lý
Trước năm 2020, nuôi cá lóc chủ yếu nhỏ lẻ. Nhưng khi nhiều hộ đạt thu nhập 500 triệu đồng 1 tỷ đồng/năm, phong trào mở rộng bùng phát. Từ trên cao nhìn xuống, hàng trăm hồ cá nối sát nhau, nhiều hồ lấn vào rừng phi lao phòng hộ và đất lâm nghiệp. Không ít cây phi lao bị chặt hạ hoặc đẽo vỏ cho chết dần để lấy đất đào hồ. Một số cụm hồ nằm sâu trong rừng, chỉ phát hiện được qua thiết bị bay.
Lợi dụng thời điểm hợp nhất, điều chỉnh địa giới hành chính, hàng chục hộ dân Cam Hồng lấn chiếm đất rừng phòng hộ và đất lâm nghiệp để đào hồ cá lóc trái phép.

Nhiều cây phi lao cổ thụ ven biển thôn Bắc Hòa, xã Cam Hồng đã bị người dân đốn hạ để làm hồ nuôi cá lóc. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Tại các thôn Bắc Hòa và Tân Hải, giữa vùng cát trắng từng phủ xanh rừng phi lao phòng hộ, nay xuất hiện la liệt hồ nuôi cá tự phát. Không chỉ vi phạm các quy định về đất đai và bảo vệ rừng, việc làm này đang gây hậu quả nặng nề về môi trường, đe dọa sinh kế và sức khỏe cộng đồng.
Ông Đinh Thanh Quang, Phó Giám đốc Ban Quản lý Rừng phòng hộ Đồng Hới và ven biển Quảng Trị, cho biết từ tháng 4/2025, đơn vị đã phát hiện 28 trường hợp vi phạm tại xã Ngư Thủy Bắc (cũ), báo cáo chính quyền xã để xử lý. Tuy nhiên, con số thực tế vượt 65 trường hợp. Nhiều hộ lấn chiếm đất rừng, đào hồ ngay sát hoặc trong rừng phòng hộ. Một số hộ chặt hạ phi lao, đẽo vỏ để cây chết dần.
Khi được hỏi, nhiều người cho biết không rõ ranh giới rừng phòng hộ và đất sản xuất; một số khác nói "thấy người ta làm thì mình làm theo."
Chính quyền xã Cam Hồng thừa nhận thời điểm chuyển giao tổ chức chính quyền hai cấp, công tác kiểm tra giám sát lỏng lẻo, tạo kẽ hở để dân tự ý đào hồ, lấn đất. Hậu quả là diện tích hồ nuôi phát triển tự phát, tràn lan, vượt xa khả năng quản lý. Không có hạ tầng xử lý nước thải, việc xả thẳng ra môi trường trở thành thông lệ, gây ô nhiễm lan rộng.
Bà Trần Thị Ngọc Trâm, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Cam Hồng, cho biết: "Thực trạng lấn chiếm đất và nuôi cá lóc trên cát đã diễn ra nhiều năm nhưng bị buông lỏng quản lý. Ngay sau khi thành lập chính quyền mới, Đảng ủy xã ban hành nghị quyết chuyên đề để xử lý dứt điểm tình trạng nóng này. Chúng tôi đang đề xuất cấp trên sớm quy hoạch vùng nuôi thủy sản phù hợp, có hướng dẫn kỹ thuật và đánh giá tác động môi trường rõ ràng. Vừa bảo đảm sinh kế, vừa bảo vệ môi trường và nguồn nước ngầm."
Hiệu quả kinh tế từ nuôi cá lóc trên cát là không thể phủ nhận. Nhưng sự phát triển nóng, thiếu quy hoạch và giám sát khiến vùng ven biển phải đối mặt với nhiều hệ lụy: nước thải chưa xử lý làm đổi màu, bốc mùi hôi thối ở nhiều khe chảy ra biển, ảnh hưởng thủy sản tự nhiên và môi trường biển.
Người dân ồ ạt lấn chiếm đất rừng, chặt hạ phi lao làm giảm khả năng chắn gió, chống xói lở, mất cân bằng sinh thái. Dòng chảy ô nhiễm, rừng bị thu hẹp, môi trường sống của nhiều loài bị phá vỡ. Nguy cơ nước ngầm bị ô nhiễm hữu cơ, phèn, mặn xâm nhập, đe dọa lâu dài nguồn nước sinh hoạt.
Câu chuyện ở Cam Hồng, Sen Ngư không chỉ là thành công kinh tế mà còn là lời cảnh tỉnh về giới hạn chịu đựng của môi trường và lỗ hổng trong quản lý. Nếu tiếp tục để hồ nuôi mở rộng tự phát, không xử lý chất thải, không quản lý nguồn nước và đất rừng, vùng cát trắng Quảng Trị sẽ phải trả giá đắt không chỉ bằng môi trường sống mà còn bằng chính sinh kế mà người dân đã vất vả tạo dựng.
Thực trạng ô nhiễm và rủi ro sinh kế
Ngay sau khi bộ máy chính quyền xã Cam Hồng đi vào hoạt động, Ủy ban Nhân dân xã tiến hành rà soát toàn bộ các công trình đào hồ nuôi cá. Từ danh sách bàn giao 28 trường hợp vi phạm, xã phát hiện thực tế có tới 65 công trình sai phạm về đất đai, lấn chiếm đất rừng và xây dựng trái phép.
Bà Trần Thị Ngọc Trâm, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Cam Hồng, cho biết: Chính quyền đã vận động người dân tạm dừng đào hồ mới, yêu cầu các hộ đang nuôi cam kết hoàn trả mặt bằng sau thu hoạch. Tinh thần chung là khuyến khích bà con giữ gìn môi trường, đồng thời hỗ trợ chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững hơn.
Nhiều hộ dân đã tự giác dừng xây hồ, chấp nhận thua lỗ. Ông Võ Văn H. (thôn Bắc Hòa) chia sẻ: "Tôi chỉ nuôi đến hết vụ này rồi trả đất. Biết sai thì phải chịu, nhưng mong sớm có vùng nuôi quy hoạch để bà con yên tâm làm ăn." Ông Võ Văn T., hộ có ba hồ đang xây dở, cũng dừng thi công và chia sẻ: "Thấy ai cũng làm nên mình làm theo. Giờ được giải thích, vận động thì phải tuân thủ."

Vùng cát ven biển thôn Bắc Hòa và Tân Hải, xã Cam Hồng chi chít những ao hồ nhân tạo, bao quanh bởi các mương thoát nước đen ngòm, bốc mùi hôi thối nồng nặc. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Ông Võ Văn Diện, Trưởng thôn Tân Hải, cho biết: Thôn có khoảng 100 hồ, mỗi hồ chứa trung bình 400m3 nước. Mỗi ngày thay nước một lần, tức khoảng 40.000m3 nước thải xả thẳng ra môi trường. Anh Nguyễn Văn Tuân tính toán: "Nuôi 12 tấn cá phải dùng 14 tấn thức ăn. Lượng chất thải từ cá và thức ăn dư rất lớn. Ngày nào cũng thay nước, xả ra khe, chảy thẳng ra biển."
Kết quả, nhiều khe nước đổ ra biển đổi màu đen, bốc mùi nồng nặc, cá chết nổi trắng, ruồi nhặng bu kín. Mùa nắng, mùi hôi theo gió lan vào khu dân cư. Nguy cơ khác là nước thải ngấm vào mạch ngầm, ảnh hưởng nguồn nước sinh hoạt. Ven biển vốn đã khan hiếm nước sạch, nay nguồn nước ngầm thêm nguy cơ nhiễm mặn, nhiễm phèn và ô nhiễm hữu cơ.
Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị, khẳng định: để xảy ra lấn chiếm đất rừng, đào ao ồ ạt là trách nhiệm của chính quyền cơ sở. Sở đã yêu cầu địa phương thống kê đầy đủ các cơ sở nuôi, đánh giá tác động môi trường, khai thác nước ngầm và xử lý nghiêm vi phạm đồng thời phối hợp Công an tỉnh lấy mẫu nước xét nghiệm tại khu vực nuôi cá lóc.
Quy hoạch vùng nuôi-giải pháp bền vững
Trước áp lực môi trường và rủi ro sinh kế, nhiều hộ dân và hợp tác xã mong muốn có vùng nuôi tập trung hợp pháp, đủ hạ tầng xử lý chất thải.
Ông Trần Kim Phi, Giám đốc Hợp tác xã Kim Phi đề xuất quy hoạch khu nuôi khoảng 10ha ở cuối thôn Bắc Hòa, xa khu dân cư, gần cơ sở chế biến.
"Nếu triển khai, sẽ hình thành mô hình khép kín: xử lý nước thải đồng bộ, có đầu mối tiêu thụ, nâng chất lượng sản phẩm, hướng tới xuất khẩu cá lóc Quảng Trị," ông Phi nói.
Ông Nguyễn Hữu Phước, Giám đốc Hợp tác xã Ngư Nam (xã Sen Ngư), nhận định với vùng nuôi quy hoạch, cá lóc Quảng Trị có thể xây dựng chỉ dẫn địa lý, mở rộng thị trường chế biến. Hợp tác xã Ngư Nam mỗi năm chế biến hàng trăm tấn cá lóc thương phẩm thành các sản phẩm cá khô tẩm gia vị, doanh thu khoảng 5 tỷ đồng. Vùng nuôi ổn định sẽ giúp sản phẩm giữ vững thương hiệu.
Tiến sỹ Đường Văn Hiếu, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao công nghệ môi trường miền Trung, cảnh báo: "Không có quy hoạch và xử lý môi trường, người dân sẽ trả giá kép - mất nguồn nước và kế sinh nhai."
Theo Tiến sỹ Hiếu, hệ thống RAS (Recirculating Aquaculture System - hệ thống nuôi thủy sản tuần hoàn) là công nghệ nuôi thủy sản hiện đại, cho phép tái sử dụng nước trong hồ nuôi nhiều lần thay vì xả thải trực tiếp ra môi trường. Hệ thống này giúp kiểm soát chất lượng nước, giảm rủi ro ô nhiễm và tăng hiệu quả sản xuất.
Chuyên gia về môi trường Lê Công Tuấn cho rằng xả nước thải trực tiếp với khối lượng lớn sẽ làm suy giảm nhanh chất lượng nước ngầm, phá vỡ hệ sinh thái cát và nhấn mạnh cần rà soát toàn bộ vùng nuôi tự phát, đánh giá tác động môi trường và ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc.

Nước thải cá hồ nuôi cá lóc được xả trực tiếp ra mương dẫn ra biển, không qua bất kỳ hệ thống xử lý nào. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị cho biết: "Tới đây, chúng tôi sẽ tham mưu Ủy ban Nhân dân tỉnh lập quy hoạch vùng nuôi tập trung, có hạ tầng xử lý nước thải - điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững."
Lợi ích kinh tế của nghề nuôi cá lóc trên cát là không thể phủ nhận: hàng trăm hộ thoát nghèo, đời sống khấm khá. Nhưng nếu tiếp tục phát triển tự phát, không xử lý chất thải, Quảng Trị sẽ phải trả giá đắt: mất môi trường sống, mất nguồn nước, mất chính sinh kế đã gây dựng. Nhiều người dân, lãnh đạo hợp tác xã và chuyên gia đều thống nhất rằng chỉ khi có vùng nuôi hợp pháp, hạ tầng đồng bộ, công nghệ hiện đại và quản lý nghiêm ngặt, nghề nuôi cá lóc mới tiếp tục mang lại lợi ích lâu dài.
Ông Trần Kim Phi nhấn mạnh: "Chúng tôi muốn nuôi cá lóc không chỉ là sinh kế mà còn là thương hiệu bền vững. Vùng nuôi tập trung, xử lý nước thải tốt sẽ giữ môi trường, bảo vệ nguồn nước, nâng cao chất lượng sản phẩm và ổn định thu nhập cho người dân."
Quy hoạch vùng nuôi tập trung và xử lý nước thải không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà còn là điều kiện sống còn để bảo vệ cả môi trường và tương lai kinh tế của vùng cát trắng. Phát triển bền vững phải đặt lợi ích lâu dài của cộng đồng lên trên lợi ích trước mắt, để không ai phải lựa chọn giữa miếng cơm hôm nay và môi trường của ngày mai.
Như vậy, câu chuyện nuôi cá lóc trên cát ở Cam Hồng, Sen Ngư không chỉ là câu chuyện sinh kế thoát nghèo mà còn là bài học về phát triển bền vững. Nếu được quản lý tốt, mô hình này sẽ trở thành minh chứng điển hình cho việc cân bằng giữa kinh tế-xã hội-môi trường, nơi người dân được hưởng lợi từ lao động và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên./.