Cách mạng tháng Tám: Nhìn từ quá trình tạo thế, tạo lực và nắm bắt thời cơ
Cách mạng tháng Tám là kết quả tất yếu của quá trình chuẩn bị 15 năm với 3 cuộc vận động cách mạng (1930-1931; 1936-1939 và 1941-8/1945) để khi thời cơ lớn xuất hiện, chỉ trong vòng 2 tuần lễ, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết đứng lên giành chính quyền. Có thể nói, 'mau lẹ, kịp thời, nổ ra đúng lúc phải nổ là đặc điểm nổi bật của cách mạng tháng Tám năm 1945'[1].
Trong quá trình chuẩn bị lực lượng và tạo thế để khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả hai yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất.

Đoàn Giải phóng quân ở Việt Bắc về duyệt binh ở Quảng trường Nhà hát Lớn, Hà Nội ngày 28/8/1945. Ảnh: TL
Ngay từ khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, xuất hiện khả năng quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương để đánh quân Nhật, Đảng đã xác định rõ: "Đừng có ảo tưởng rằng, quân Tàu và quân Anh và Mỹ sẽ mang lại tự do cho ta; cố nhiên là phải kiếm bạn đồng minh, dẫu rằng tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, nhưng công việc của ta, trước hết ta phải làm lấy"[2].
Gần 5 năm sau đó, ngay sau sự kiện "Nhật đảo chính Pháp" (9/3/1945), trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng một lần nữa khẳng định: “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa” và dự kiến “nếu tình thế chuyển biến thuận lợi thì dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”[3].
Có thể thấy, quá trình chuẩn bị, tạo thế, tạo lực cho cách mạng để đón thời cơ chiến lược được Đảng chỉ đạo tiến hành từ rất sớm. Ngay sau khi chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, bằng các Hội nghị Trung ương 6 (11/1939), Trung ương 7 (11/1940), đặc biệt là Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), Đảng đã quyết định chuyển hướng chiến lược, trong đó xác định rõ: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Để làm được điều đó cần phải tăng cường xây dựng Đảng và đào tạo cán bộ; mở rộng và củng cố Mặt trận Việt Minh; tổ chức lực lượng vũ trang, bao gồm các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích và đội du kích chính thức. Với lực lượng chính trị và vũ trang đã được xây dựng, khi có thời cơ thuận lợi sẽ đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền trong từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Kể từ sau Hội nghị Trung ương 8, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trở thành nhiệm vụ hàng đầu. Mặt trận Việt Minh, ngọn cờ tập hợp mọi lực lượng ra đời. Việc xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới từ đây được định hình một cách cụ thể và xúc tiến rất mạnh mẽ. Cùng với đó là tích cực củng cố và mở rộng căn cứ địa làm chỗ đứng chân cho các lực lượng cách mạng... Tất cả đều nhằm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của tình thế cách mạng để khi thời cơ đến không bị động.
Hiện thực hóa chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng, tại vùng rừng núi Việt Bắc, hai khu căn cứ địa cách mạng là Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai đã sớm hình thành. Tại đây, các Đội vũ trang Cao Bằng, Du kích Bắc Sơn, Cứu quốc quân 1, 2 lần lượt ra đời. Tại các địa phương trong cả nước, các tổ chức cứu quốc, cơ sở chính trị, đội du kích cũng được xây dựng.
Từ các căn cứ địa Cao Bằng, Bắc Sơn - Võ Nhai, các hội Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh phát triển nhanh chóng xuống vùng trung du và đồng bằng. Giữa năm 1942, hai khu căn cứ địa Cao Bằng và căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai đã được nối thông.
Tiếp đó, các tuyến hành lang chính trị lần lượt ra đời nối căn cứ địa Việt Bắc với các căn cứ miền xuôi. Cũng theo tuyến hành lang này, tháng 5/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng các cộng sự đã từ Pác Bó về Tân Trào cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa.
Phong trào tự vệ, du kích, các căn cứ địa, an toàn khu lần lượt ra đời ở nhiều địa phương. Cuối năm 1942, đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam có bước phát triển mới. Đúng như Tổng bí thư Trường Chinh lúc bấy giờ đã chỉ rõ :"Phải sửa soạn điều kiện vật chất cho cuộc khởi nghĩa. Điều kiện vật chất ấy là gì? Là đội quân cách mạng cơ bản và võ khí"[4].
Mùa hè 1944, tình hình cách mạng Việt Nam đặt ra yêu cầu cần phải gấp rút xây dựng và phát triển các đội du kích, tự vệ, vũ trang với hình thức tổ chức thích hợp. Đặc biệt phải xây dựng cho được một đội quân vũ trang tập trung để làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa.
Chính vì vậy, tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị và giao ông Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam và là Đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam.
Đầu năm 1945, vấn đề phát triển lực lượng và tạo thế cho cách mạng được các tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh tiếp tục đẩy mạnh. Cùng với việc phát triển các tổ chức vũ trang như Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ở các chiến khu Cao - Bắc - Lạng, Thái - Tuyên - Hà, Quân du kích ở Nam Kỳ, đội du kích Ba Tơ ở Quảng Ngãi, Trung đội Giải phóng quân ở chiến khu Quang Trung, Đội "Du kích cách mạng quân" ở chiến khu Đông Triều, Đội Du kích Ngọc Trạo ở Thanh Hóa... thì hàng loạt các đội du kích, tự vệ chiến đấu với hình thức tổ chức biên chế, quy mô và trang bị khác nhau cũng đã lần lượt ra đời tại các chiến khu, căn cứ cách mạng trong cả nước.
Ngay sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", trong đó chỉ rõ rằng không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, dự báo tình hình và kết quả của quá trình tạo thế, tạo lực, Ban Thường vụ Trung ương Đảng dự kiến "Nếu tình thế chuyển biến thuận lợi thì dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc Tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và giành thắng lợi"[5]. Một cao trào kháng Nhật, cứu nước đã bùng nổ rộng khắp trong cả nước. Hình thái du kích chiến tranh phát triển khắp nơi. Các tổ chức vũ trang xuất hiện nhiều và rộng khắp, đủ sức hỗ trợ và làm chỗ dựa cho quần chúng xuống đường đấu tranh. Tại các địa phương, nhiều cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp nổ ra, đưa đến sự mở rộng đáng kể các căn cứ địa, chiến khu cách mạng...
Ngày 15/5/1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang cách mạng trong cả nước thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân (VNGPQ). Tình thế cách mạng lúc này đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên hết, đó là "tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ"[6].
Tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc, gồm 6 tỉnh và một số vùng phụ cận ra đời. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ủy ban khởi nghĩa được thành lập. Lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm nặng vẫn cố gượng dậy căn dặn ông Võ Nguyên Giáp: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Trong ngày 16 -17/8/1945, Quốc dân Đại hội đã họp thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa; đồng thời thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và quyết định thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 19/8, Tổng khởi nghĩa nổ ra và thành công ở Hà Nội. Như một phản ứng dây chuyền, chỉ trong vòng hai tuần lễ, Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Cách mạng tháng Tám nổ ra và thành công vào thời điểm khi mà ở trong nước cao trào kháng Nhật cứu nước đã lên đến đỉnh cao, quân đội Nhật ở Đông Dương tuy lực lượng còn đông và trang bị vũ khí còn nhiều nhưng có giảm sút nhuệ khí; chính quyền tay sai vẫn tồn tại nhưng tinh thần hoang mang, dao động; quân Đồng minh chưa kịp vào... Đây chính là "thời cơ vàng" mà Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã kịp thời chớp lấy, lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực giành chính quyền trong cả nước. Với chính quyền mới giành được, nhân dân Việt Nam có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, với tư thế ngẩng cao đầu tiếp quân đội các nước vào giải giáp quân Nhật theo sự phân công của Đồng minh chống phát xít.
[1] Trường Chinh tuyển tập. Nxb Sự thật. H. 1987. Tr.172
[2] Văn kiện quân sự của Đảng(1930 - 1945). Nxb QĐND.H.1969. Tr.228.
[3] Văn kiện Đảng.(1939 – 1945). Nxb CTQG H.tr.482
[4] Trường Chinh: Ngọn cờ giải phóng. Nxb Sự thật. H.1976. tr.104
[5] Văn kiện Đảng (1940 – 1945). Nxb CTQG.H.2000. tr.373.
[6] Văn kiện quân sự của Đảng. Sdd. Tr.283.