Những kỷ niệm của Anh hùng Lê Tính
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Đại tá Lê Tính, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Bình Phước sinh tại Thanh Điền (Châu Thành - Tây Ninh). Năm 17 tuổi ông đã đi theo kháng chiến. Là người có bề dày trận mạc và một trong những trận đánh để đời do ông chỉ huy là trận đánh vào Chi khu Chơn Thành trong những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4-1975, mở đường cho quân ta tiến về giải phóng Thủ Dầu Một, Sài Gòn.
Những kỷ niệm của Anh hùng Lê Tính
(Báo Bình Phước, 29-4-1998)
QUỐC NAM
Vào một ngày cuối tháng Tư trong căn phòng tạm của Tỉnh đội mới được nhận sau ngày tách tỉnh, Anh hùng Lê Tính tiếp tôi vẫn dáng vẻ mộc mạc, gần gũi. Phòng không máy lạnh, chiếc quạt đã “già” kêu cót két. Anh bảo: Mấy hôm nay đang xây trụ sở mới cho Tỉnh đội. Việc giải tỏa, đền bù ta làm hơi chậm. Tôi vào chuyện: Anh có thể kể đôi nét về tuổi thơ của anh? Biết nói sao bây giờ, bắt đầu từ đâu? Tham gia cách mạng hồi còn nhỏ. Ông già đi theo cách mạng, bà già hy sinh thời chống Pháp, ông anh đi tập kết. Gia đình như thế, cứ theo hướng đó mà đi. Ở quê tôi thời kỳ năm năm tám (1958) bọn địch tàn sát người kháng chiến cũ. Bọn việt gian nó biết gia đình đi theo cách mạng nên lần mò tới. Một số anh em lại hướng dẫn cho mình và bản thân mình thì khoái đi bộ đội nữa. Anh trò chuyện một cách tự nhiên, không sắp xếp. Anh sinh tại Thanh Điền (Châu Thành - Tây Ninh). Gia đình có bốn người hy sinh cho cách mạng (bố, mẹ và hai anh trai). Anh Út Tính lớn lên, bố, mẹ bị giặc giết, các anh, chị còn lại đều đi theo cách mạng. Lúc ấy anh còn nhỏ tuổi nên sang ở với chị gái. Thời gian sau nữa thì được bà ngoại đón về nuôi. Năm mười bảy tuổi thì đi theo kháng chiến. Anh bảo: Nhà tôi chỉ còn trơ lại cái nền nhà. Bây giờ giải phóng đã hai mươi ba năm nhưng cũng mới làm thủ tục truy phong liệt sĩ cho hai người là bà mẹ và người anh thứ bảy. Ông anh thứ bảy hy sinh khoảng tháng 7-1969 tại chi khu Bù Đăng. Tới tháng chín khi làm tang lễ Bác tôi mới nhận được tin. Bây giờ tôi chưa biết hài cốt anh ấy ở đâu. Còn ông anh thứ tư hy sinh trong kháng chiến chống Pháp thì chưa có vợ con. Bây giờ làm thủ tục truy phong danh hiệu liệt sĩ cho anh ấy thì mình cảm thấy ngài ngại (bảo là đòi hỏi quyền lợi). Thế còn suy nghĩ của anh lúc đi theo cách mạng? Thú thật lúc đó chưa có ý thức lắm đâu. Còn non nớt mà. Muốn vào bộ đội là để đi theo ông anh. Các chú bảo ở lại bộ đội địa phương, tôi bảo không được. Muốn vào bộ đội chủ lực. Vì thế nên họ đưa lên bộ đội Miền, đóng ở Bàu Rã (Tây Ninh) sau đó về Sóc Mới.
Từ đó anh gắn bó với sự gian khổ, ác liệt của chiến trường miền Đông. Từ người lính cho đến lúc trưởng thành, trở thành người chỉ huy anh luôn luôn chiến đấu với tinh thần dũng cảm, táo bạo và đầy sáng tạo. Có những trận đánh hết 12 phút và chỉ có một đồng chí bị thương như trận Bàu Rã. Các trận đánh của anh ít khi bị thất bại. Anh cho biết: Các trận đánh trực tiếp với Mỹ dễ hơn là đánh với ngụy. Ban đầu đánh Mỹ cũng thấy ngại. Nó trang bị mạnh hơn. Mỹ hành quân đến đâu thì rầm rộ. Hầu hết các địa điểm của Mỹ ở Bình Long tôi đều đột nhập. Các đồn trú của ngụy vào rất khó, còn vào căn cứ Mỹ đóng quân dễ hơn. Như căn cứ Téc Nic, anh em chưa vào nghe thấy sợ chứ vào đến nơi thấy dễ. Nói như vậy không phải ra vào tự do đâu. Có lần tôi thấy nó ở ngoài bãi tắm. Nó dùng trực thăng phun nước xuống. Tôi đi cách nó chừng 15-20 thước. Tôi đưa trái ra đánh. Đánh rồi phải biết rút, chứ hỏa lực nó rất mạnh. Mỹ khờ và chậm hơn ngụy. Loại bảo an địa phương có cách đánh gần giống mình. Khi đi vào thực tế anh em lại khoái đánh Mỹ. - Thưa anh, nếu được đề nghị phong anh hùng thì anh sẽ đề nghị phong những đồng đội nào? - Tất cả nhân dân ta, dân tộc ta, những người đi theo cách mạng làm nên chiến thắng 30-4-1975 đều là anh hùng. Nếu được đề nghị cụ thể những người đã chiến đấu dũng cảm, sáng tạo góp phần vào thắng lợi chung thì tôi đề nghị phong anh hùng cho các anh Đinh La Cầu; xã đội trưởng Tân Khai - Ba Đạo; đồng chí Minh xạ thủ 70 chiến đấu vô tư dũng cảm. - Vậy còn thời điểm 30-4-1975 anh ở đâu? - Thời điểm đó tiểu đoàn tôi được giao nhiệm vụ giải phóng và tiếp quản Chơn Thành. Sau đó sẽ chuẩn bị đánh từ phía Bắc xuống Sài Gòn. Con số tiểu đoàn còn lại 100 cây súng. Chúng tôi đang chuẩn bị thì được lệnh dừng lại và nghe tin giải phóng. Bây giờ tả lại sao hết cái vui mừng khi được hỏi về chuyện tình riêng, anh cười bảo. Vợ tôi lúc đó là y tá, tên là Nguyễn Thị Tiễn, quê ở Lộc Tấn (Lộc Ninh). Bà ở đội phẫu tiền phương. Khi đánh trận xong về gặp nhau. Sau chiến dịch Mậu Thân là cưới. Lúc đó kể cũng buồn cười. Tụi tôi yêu nhau ai cũng biết, nhưng cũng chưa đặt vấn đề cưới đâu. Tôi chờ hết giờ cao điểm thì nổ súng. Buổi chiều về lại, thấy “bả” xuống. Anh Hai Tôn chuẩn bị tát cá, bắn thú. Lễ được tổ chức tại Bàu Trâu (Bình Long). Tiệc chủ yếu là thịt rừng, cá và cũng có rượu để nhậu. Nói lễ cưới thì không đúng, mà gọi là lễ tuyên bố. Tuyên bố rồi, nhậu xong, 4 giờ khuya tôi phải ra thị xã. Hai tháng sau mới gặp lại nhân dịp đi hội nghị đặc công của Miền.
Bây giờ anh, chị đã có bảy người con. Hai trai và năm gái, chị đã về hưu. Ngoài cương vị là đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tỉnh đội trưởng; người Anh hùng của chúng ta còn làm nhiệm vụ của một người cha bình dị mộc mạc, một người chồng thủy chung. Ngoài công việc ở cơ quan anh vẫn thích xắn quần, vác cuốc ra vườn, chăm bón vườn tiêu của mình.