Những di tích ghi dấu mùa thu Cách mạng
Tại Thủ đô Hà Nội nhiều địa danh, di tích Cách mạng vẫn được lưu giữ, gắn liền với thời khắc hào hùng của dân tộc, mang ý nghĩa đặc biệt trong dòng chảy lịch sử của đất nước.

Thủ đô Hà Nội những ngày thu lịch sử thật đẹp.
Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang - Nơi khai sinh bản Tuyên ngôn Độc lập
Nằm giữa con phố cổ kính, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang với kiến trúc Pháp cổ gần như còn nguyên vẹn là di tích đặc biệt gắn liền với Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9/1945.
Vào những năm 40 của thế kỷ trước, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang vốn là hiệu Phúc Lợi, một hiệu buôn tơ lụa, vải vóc thuộc hàng lớn nhất Hà Nội. Chủ nhân của ngôi nhà là vợ chồng doanh nhân Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ.

Những bức ảnh tư liệu về gia đình nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang.
Trong cuốn “Hà Nội danh thắng và di tích” do Tiến sĩ Lưu Minh Trị chủ biên có ghi, ngôi nhà 48 Hàng Ngang nằm giữa khu phố buôn bán sầm uất, khách ra vào tấp nập, từ tầng bốn có thể quan sát một khu vực rộng lớn từ chợ Đồng Xuân đến ngã tư Hàng Đào.
Với vị trí ấy, ngôi nhà rất thuận lợi cho hoạt động bí mật của Đảng. Hơn nữa, gia đình ông bà Trịnh Văn Bô vốn giàu lòng yêu nước, đã sớm được giác ngộ cách mạng và trở thành cơ sở tin cậy trong nội thành Hà Nội. Chính vì vậy, Thành ủy Hà Nội đã chọn nơi đây làm chỗ ở và làm việc của các đồng chí Trung ương trước Cách mạng Tháng Tám.

Hình ảnh tư liệu về Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang những năm đầu thế kỷ XX.
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu trở về Hà Nội, ngôi nhà 48 Hàng Ngang tiếp tục được Trung ương lựa chọn làm nơi Người ở và làm việc.
Gia đình ông bà Trịnh Văn Bô đã dành toàn bộ tầng hai của ngôi nhà để Bác cùng các đồng chí trong Trung ương Đảng bàn bạc, quyết định những vấn đề hệ trọng, chuẩn bị cho ngày Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ ông Trịnh Văn Bô kể lại: “Tôi nhớ lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nhà tôi. Người mặc rất giản dị, áo nâu, quần nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su “con hổ trắng”, tay cầm can. Khi Người bước vào nhà, vợ chồng tôi ra đón và đưa Người lên gác 3, nơi tôi đã chọn sẵn 1 buồng đủ tiện nghi để Người ở lại. Sau Người lại xuống tầng 2 ở luôn cùng các đồng chí mình và làm việc tại đó”. (Theo cuốn “Hà Nội danh thắng và di tích” -Tiến sĩ Lưu Minh Trị chủ biên - Nhà xuất bản Hà Nội)
Như vậy, từ ngày 25/8 đến 2/9/1945, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang đã trở thành nơi làm việc của Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc được tái hiện lại tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang.
Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, quyết định nhiều những vấn đề tối quan trọng: chuyển Ủy ban Giải phóng Dân tộc thành Chính phủ lâm thời; mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời, thực hiện đoàn kết rộng rãi mời thêm những nhân sĩ trí thức yêu nước vào thành viên Chính phủ; tổ chức cuộc mít tinh lớn tuyên bố với quốc dân và thế giới nước ta đã độc lập.
Danh sách Chính phủ lâm thời cũng được công bố trên báo chí và ấn định ngày 2/9/1945 ra mắt quốc dân đồng bào.

Không gian và chiếc bàn này là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí trong Trung ương Đảng thông qua 3 nội dung: Tuyên ngôn Độc lập; Tổ chức lễ Quốc khánh; Thành phần Chính phủ lâm thời.
Không chỉ dừng lại ở những quyết sách lịch sử ấy, cũng chính tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập – văn kiện khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bản Tuyên ngôn không chỉ thể hiện khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc, mà còn là sự kết tinh các giá trị truyền thống, khẳng định quyền con người, quyền dân tộc trước quốc dân và bạn bè quốc tế.

Bàn máy đánh chữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bàn Tuyên ngôn Độc lập được trưng bày tại Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang.
Ngôi nhà 48 Hàng Ngang đã trở thành địa chỉ lịch sử đặc biệt, gắn liền với thời khắc trọng đại mở ra thời đại mới dân tộc – thời đại Hồ Chí Minh.
Quảng trường Ba Đình – Trái tim của Thủ đô
Trong suốt chiều dài lịch sử, Quảng trường Ba Đình đã chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc.
Ba Đình – Tên gọi gắn liền lịch sử
Theo tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, tên gọi “Ba Đình” bắt nguồn từ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp trong phong trào Cần Vương năm 1886 tại Nga Sơn, Thanh Hóa, do các lãnh tụ Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy. Nghĩa quân đã xây dựng căn cứ trên ba làng Mỹ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh, chiến đấu kiên cường với sự che chở, giúp sức của nhân dân.
Dù khởi nghĩa chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng tinh thần bất khuất ấy đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, để lại địa danh Ba Đình như một dấu ấn sâu đậm.

Vườn hoa Ba Đình trong ngày 2-9-1945 (Nguồn: TTXVN)
Ngày 20/7/1945, khi đảm nhiệm chức vụ Đốc lý Hà Nội trong Chính phủ Trần Trọng Kim, bác sĩ Trần Văn Lai đã đổi hàng loạt tên phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, lấy tên các anh hùng dân tộc: phố Garnier thành Đinh Tiên Hoàng, boulevard Carnot thành Phan Đình Phùng…
Trong tinh thần ấy, ông đổi tên Vườn hoa Puginier trước Phủ Toàn quyền thành Vườn hoa Ba Đình, để tưởng nhớ cuộc khởi nghĩa anh dũng, khẳng định tinh thần dân tộc và khát vọng độc lập của người Việt.
Và chính tại không gian lịch sử ấy, ngày 2/9/1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng chính thức trở thành Chính phủ lâm thời, ra mắt nhân dân tại Quảng trường Ba Đình.

Các đại biểu và quốc dân giơ tay tuyên thệ. (Nguồn: TTXVN)
Lần đầu tiên sau hơn 80 năm nô lệ, hơn năm mươi vạn đồng bào Hà Nội và các tỉnh lân cận, thuộc đủ mọi tầng lớp, đã nô nức về Quảng trường Ba Đình dự ngày hội độc lập của toàn dân tộc. Trước quốc dân đồng bào và trước toàn thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu trên Lễ đài Độc lập. (Nguồn: TTXVN)
Nơi hội tụ lòng yêu nước
Ngày nay, Quảng trường Ba Đình đã trở thành một di sản quốc gia, là nơi chứng kiến và lưu giữ nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng của đất nước. Nổi bật trong khuôn viên quảng trường là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, công trình tượng trưng cho lòng biết ơn của nhân dân đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Quảng trường Ba Đình hôm nay.
Nằm trong Cụm di tích lịch sử-văn hóa Ba Đình, Quảng trường Ba Đình là địa điểm tổ chức nhiều buổi diễu hành hoành tráng vào các ngày lễ lớn của đất nước, đồng thời diễn ra các sự kiện trọng đại như lễ duyệt binh, lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, mít tinh, báo công, lễ kết nạp Đảng…
Năm nay, Quảng trường Ba Đình một lần nữa trở thành điểm hẹn lịch sử, nơi nhân dân cả nước cùng hướng về trong không khí đại lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.
Bắc Bộ Phủ – Nơi Bác Hồ làm việc

Bắc Bộ Phủ hiện nay là trụ sở làm việc Cơ quan Chủ tịch nước.
Sau lễ Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển từ ngôi nhà 48 Hàng Ngang về Bắc Bộ phủ (số 12 Ngô Quyền, Hà Nội). Ngày nay, Bắc Bộ Phủ được xem là di tích lịch sử đặc biệt, lưu giữ những dấu ấn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và giai đoạn đầu tiên của chính quyền cách mạng.
Thời kỳ Pháp thuộc, tòa nhà này từng là Dinh Thống sứ Bắc Kỳ, được xây dựng vào năm 1918-1919. Ngày 9/3/1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, tòa nhà được đổi tên thành Phủ Khâm sai Bắc Kỳ.

Kiến trúc cổ điển châu Âu vẫn được lưu giữ nguyên vẹn tại tòa nhà Bắc Bộ Phủ.
Dinh Thống sứ Bắc Kỳ mang đậm dấu ấn kiến trúc cổ điển châu Âu, kết hợp hài hòa với các yếu tố bản địa, thể hiện quy mô bề thế và tầm quan trọng của cơ quan hành chính cao nhất xứ Bắc Kỳ. Mặt chính của công trình hướng ra vườn hoa Chavassieux, hay còn gọi là vườn hoa Con Cóc.
Trong Cách mạng Tháng Tám, vào ngày tổng khởi nghĩa 19/8/1945, lực lượng Việt Minh phối hợp với nhân dân Hà Nội đã tiến công và giành trọn quyền kiểm soát tòa nhà, mở ra một bước ngoặt quan trọng trong quá trình giành chính quyền ở Thủ đô.
Sau khi đổi tên thành Bắc Bộ phủ, tòa nhà trở thành chứng nhân của những sự kiện lịch sử quan trọng.

Tòa nhà Bắc Bộ Phủ là chứng nhân của những sự kiện lịch sử quan trọng.
Tại Bắc Bộ phủ, dưới sự bảo vệ của các chiến sĩ Vệ quốc đoàn và Tự vệ Hoàng Diệu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm việc, tiếp đón các đoàn khách trong và ngoài nước, cùng nhiều tầng lớp nhân dân, nhân sĩ, trí thức, công thương yêu nước. Từ nơi đây, những chủ trương, chính sách quan trọng đầu tiên về đối nội và đối ngoại của Nhà nước cách mạng đã được hình thành, đặt nền móng cho bộ máy chính quyền non trẻ.

Sau khi cải tạo, Bắc Bộ Phủ vẫn được lưu giữ tối đa những giá trị nguyên bản.
Cục trưởng Cục Di sản văn hóa Lê Thị Thu Hiền cho biết, tòa nhà Bắc Bộ Phủ là một trong những thiết chế biểu tượng của quyền lực chính trị Việt Nam trong thế kỷ XX và đến nay tiếp tục phát huy vai trò khi trở thành trụ sở Văn phòng Chính phủ. Mỗi chi tiết kiến trúc, từ hành lang, cầu thang, cửa gỗ đến bố cục tổng thể, đều phản ánh rõ nét sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Pháp và yếu tố bản địa. Trùng tu đúng cách sẽ giữ cho công trình tiếp tục “sống” trong đời sống đương đại, thay vì chỉ tồn tại trên những trang tư liệu.
Trải qua những năm tháng lịch sử, Bắc Bộ phủ giờ đây trở thành chứng nhân của bao thăng trầm Thủ đô. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch là cần thiết, để nơi đây luôn ghi dấu trong lòng người dân Hà Nội và du khách.
Nhà tù Hỏa Lò – từ địa ngục trần gian đến điểm thăm quan hấp dẫn
Được mệnh danh là “địa ngục trần gian” giữa lòng Hà Nội, nhà tù Hỏa Lò là minh chứng rõ nhất về những hy sinh, gian khổ và tinh thần đấu tranh bất khuất, quật cường của các chiến sĩ cách mạng trước kẻ thù.

Nhà tù Hỏa Lò hiện nay có địa chỉ trên phố Hỏa Lò, phường Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Nhà tù Hỏa Lò được thực dân Pháp xây dựng năm 1896, trên đất làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương, Hà Nội (nay là phố Hỏa Lò, phường Hoàn Kiếm).
Là một trong số những nhà tù lớn nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, nơi đây từng giam giữ, tra tấn hàng ngàn chiến sỹ yêu nước, nhà cách mạng lớn của dân tộc. Trong đó, có thể kể đến: Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Quyền, Hồ Tùng Mậu, … cùng các đồng chí Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười.

Không gian tái hiện cảnh những chiến sĩ cách mạng bị giam cầm tại nhà tù Hỏa Lò.
Dù bị tra tấn, đày ải với nhiều cực hình dã man, nhưng từ trong lao tù, ý chí đấu tranh cách mạng và tinh thần yêu nước vẫn không hề khuất phục. Các chiến sĩ đã biến nhà tù thành trường học để tuyên truyền, giác ngộ đường lối cách mạng của Đảng.

Bức phù điêu tại Nhà tù Hỏa Lò khắc họa rõ nét cảnh tra tấn và những trận đòn roi trong chốn lao tù.
Năm 1945, sự kiện nổi bật nhất tại Nhà tù Hỏa Lò phải kể đến cuộc vượt ngục với quy mô lớn. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và chiếm quyền quản lý Nhà tù Hỏa Lò. Lợi dụng tình hình hỗn loạn, sơ hở trong lúc canh phòng, hơn 100 tù nhân chính trị, trong đó có các đồng chí như: Trần Tử Bình, Trần Đăng Ninh, Đỗ Mười…đã chui xuống cống ngầm vượt ngục thành công. Sự trở về của nhiều lãnh đạo cốt cán cũng góp phần làm nên thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng nhà tù Hỏa Lò vẫn còn đó như dấu ấn không thể nào quên về sự hy sinh, bất khuất của những lớp cha anh đã kiên cường chiến đấu vì độc lập dân tộc. Và ngày nay, nhà tù Hỏa Lò là địa chỉ đỏ quan trọng giáo dục các thế hệ học sinh về lòng yêu nước. Đây cũng là di tích lịch sử cấp quốc gia được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận năm 2017.

Du khách thăm quan di tích Nhà tù Hỏa Lò.
Và trong suốt những năm qua, để di tích nhà tù Hỏa Lò trở thành điểm đến hấp dẫn, nhiều chương trình, hoạt động tham quan trải nghiệm đã được triển khai, như: Giao lưu với nhân chứng lịch sử; thi tìm hiểu về Di tích Nhà tù Hỏa Lò, ra mắt các chương trình trải nghiệm ban ngày với chủ đề “Chuyến tàu thời gian 1,2,3” dành cho học sinh các cấp học phổ thông…Đặc biệt, trong không gian về đêm, với sự kết hợp giữa âm thanh, ánh sáng, cùng những câu chuyện kể chân thực, cuộc sống đọa đày nơi tù ngục đã được tái hiện qua các hoạt cảnh sân khấu đầy xúc động, nhưng hào hùng. Với các chủ đề “Đêm thiêng liêng - Sáng ngời tinh thần Việt”, “Đêm thiêng liêng 2 - Sống như những đóa hoa”, “Đêm thiêng liêng 3 - Lửa thanh xuân”; “Đêm tình yêu”; “Tình đồng chí”, du khách như ngược thời gian để hiểu và cảm nhận sâu sắc những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy mà các chiến sĩ Cách mạng đã phải trải qua.
Thắp 1 nén nhang, tri ân các anh hùng, liệt sĩ yêu nước tại Đài tưởng niệm của Nhà tù Hỏa Lò sau chuyến thăm quan, em Nguyễn Hà An, học sinh trường THCS Lê Lợi (phường Hà Đông, Hà Nội) chia sẻ: “Đây là chuyến thăm quan rất có ý nghĩa với con. Nhìn không gian trưng bày và các hiện vật, có thể thấy các chiến sĩ cách mạng đã phải trải qua vô vàn nỗi đau về thể xác, tinh thần. Con rất tự hào, biết ơn, nhờ có họ mà thế hệ chúng con mới được sống trong hòa bình, hạnh phúc như hôm nay”.
Với cách làm sáng tạo trong các hoạt động thăm quan, trải nghiệm, nhà tù Hòa Lò - từ một di tích ít người được biết đến, nay đã trở thành địa chỉ đỏ, điểm thăm quan hấp dẫn của Thủ đô Hà Nội.
Nhà hát Lớn - biểu tượng về văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật và lịch sửDấu ấn kiến trúc và văn hóa của Thủ đô
Nhà hát Lớn Hà Nội được khởi công xây dựng vào năm 1901 và hoàn thành vào cuối năm 1911 trên mảnh đất thuộc thôn Tây Long, tổng Phúc Lân, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Hà Nội (nay là phố Tràng Tiền, phường Hoàn Kiếm). Đây là công trình được chính quyền Pháp xây dựng nhằm mục đích phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho quan chức người Pháp cũng như tầng lớp thượng lưu, trí thức đô thị lúc bấy giờ.

Toàn cảnh Nhà hát Lớn Hà Nội.
Nhà hát Lớn do các kiến trúc sư người Pháp là Broyer và Harlay thiết kế. Với kiến trúc, nội thất tráng lệ theo phong cách cổ điển Pháp thế kỷ XIX, Nhà hát Lớn được xây dựng trên diện tích 2.600m², gồm 870 ghế, xếp thành 3 tầng.

Nhà hát Lớn Hà Nội vẫn vững vàng với thời gian.
Sau 10 năm xây dựng, Nhà hát Lớn được đưa vào sử dụng. Thời gian đầu, nhà hát được dành cho các đoàn hát từ phương Tây sang biểu diễn, chủ yếu là các loại hình nghệ thuật cổ điển như Opera, nhạc thính phòng…Về sau Nhà hát Lớn cũng có những buổi diễn do người Việt Nam tổ chức để làm từ thiện. Từ năm 1940, nhiều đoàn kịch nói của ta đã thuê được Nhà hát Lớn để biểu diễn.

Những chi tiết kiến trúc cổ điển Pháp được gìn giữ tại Nhà hát Lớn Hà Nội.
Theo tài liệu của GS.TS.KTS. Hoàng Đạo Kính và các nhà nghiên cứu Văn hóa, thì đây là công trình biểu diễn nghệ thuật lâu đời nhất, tiêu biểu nhất, trang trọng và đường bệ nhất, phù hợp nhất với các chương trình nghệ thuật sân khấu và âm nhạc đẳng cấp, đáp ứng trình độ biểu diễn quốc tế... Công trình có vị trí đặc biệt trong di sản, trong quỹ kiến trúc thời Pháp thuộc của Thủ đô và của các đô thị trong cả nước…Đồng thời trở thành một trong những hình ảnh quen thuộc nhất, một biểu tượng của Thủ đô, không một kiến trúc nào ở đây lại đặc trưng cho Hà Nội như vậy.
Không gian nghệ thuật gắn liền với lịch sử dân tộc
Ngoài giá trị về nghệ thuật kiến trúc, Nhà hát Lớn Hà Nội cũng là chứng nhân của lịch sử cách mạng, khi ngày 17/8/1945, cán bộ Việt Minh đã biến cuộc mít tinh Tổng hội viên chức tổ chức để ủng hộ chính quyền bù nhìn, thành cuộc kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh, đả đảo bọn bù nhìn thân Nhật.

Đặc biệt, ngày 19/8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đã kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Dưới cờ đỏ sao vàng rực rỡ và trong âm nhạc hào hùng của bài “Tiến quân ca”, Ủy ban Khởi nghĩa đọc lời kêu gọi khởi nghĩa. Sau đó cuộc mít-tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang giành chính quyền.

Tại đây, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra.
Cũng tại Nhà hát Lớn, nhiều sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra. Ngày 29/8/1945, đoàn quân Giải phóng từ Việt Bắc về Hà Nội, ra mắt đồng bào Thủ đô, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Ngày 16/9/1945, khai mạc “Tuần lễ vàng” để quyên góp vàng và tiền cho quỹ Quốc phòng và quỹ Độc lập. Trong ngày khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không đến dự được, nhưng Người đã gửi thư cho toàn thể quốc dân đồng bào. Và chỉ trong một tuần (từ 16/9 đến 22/9/1945), dù còn khó khăn, nhân dân cả nước không phân biệt giai cấp, tôn giáo đã tự nguyện góp được 370 cân vàng, 20 triệu đồng cho Quỹ độc lập, 40 triệu đồng vào Quỹ Đảm phụ Quốc phòng.

Nhà hát Lớn đã chứng kiến những sự kiện lịch sử trọng đại của thủ đô.
Đầu tháng 10/1945, ngay tại quảng trường Nhà hát Lớn, ngày “Nam Bộ kháng chiến” được tổ chức, mang đến sự chuyển biến về tinh thần, từ đó nhân dân các miền cũng đứng lên biểu tình, đấu tranh chống Pháp tái chiếm miền Nam.
Nhà hát Lớn cũng là nơi diễn ra nhiều kỳ họp Quốc hội quan trọng
- Ngày 5/3/1946: Kì họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I.
- Ngày 2/9/1946: Mít tinh kỷ niệm 1 năm chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa, cũng là lần đầu tiên Bác Hồ đặt chân vào Nhà hát Lớn Hà Nội.
- Từ ngày 28/10 - ngày 9/11/1946: Kì họp thứ 2, Quốc hội khóa I, thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Chứng kiến những bước chuyển quan trọng của đất nước suốt 124 năm qua, đến nay Nhà hát Lớn đã trở thành biểu tượng tôn vinh vẻ đẹp Thủ đô Hà Nội, nhất là khi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2011. Nơi đây không chỉ là trung tâm diễn ra các cuộc họp, hội nghị quan trọng, mà còn là không gian trình diễn nghệ thuật đỉnh cao của các chương trình ca múa nhạc, kịch trong nước và quốc tế.

Nhà hát Lớn Hà Nội nhuộm màu thời gian.
80 năm đã trôi qua kể từ mùa thu Cách mạng, nhưng dấu ấn tại các di tích vẫn lặng lẽ kể lại với hậu thế. Những địa chỉ ấy không chỉ gợi lại một giai đoạn anh hùng của dân tộc, mà còn khẳng định lòng biết ơn và niềm tự hào về Tổ quốc trong mỗi người Việt Nam.
Nguồn:
1. “Hà Nội danh thắng và di tích” – TS Lưu Minh Trị (chủ biên) - Nhà xuất bản Hà Nội
2. “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội” – Nguyễn Đình Lê (chủ biên) – Nhà xuất bản Hà Nội
3. Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội - Một công trình kiển trúc có giá trị về nhiều phương diện - GS, TS, KTS Hoàng Đạo Kính, tài liệu lưu tại Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội
4. Nguồn tư liệu: Bảo tàng lịch sử Quốc gia
5. Nguồn tư liệu: Ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò.