Những cuộc di dân làm nên lịch sử
Lịch sử nước Việt đã ghi dấu các giai đoạn mở mang bờ cõi, nối liền Bắc Nam. Trong hành trình khai khẩn, xác lập chủ quyền lãnh thổ ấy có dấu ấn của những cuộc di dân lịch sử, tuy nhiên hiện còn khá ít những cuốn sách viết về đề tài này.

Một vài cuốn sách đề cập đến đề tài di dân.
Nghiên cứu từ các tài liệu tiếng Pháp, tác giả Trần Xuân Trí cho rằng, trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, Nam kỳ là một điểm thu hút dòng di dân, không chỉ người Việt gốc Trung kỳ, Bắc kỳ, mà cả người châu Á nước ngoài. Trong thời kỳ Pháp thuộc, di dân lao động, đặc biệt là người Bắc kỳ và Java đi khai thác đồn điền cao su là một trong những vấn đề trung tâm của đời sống kinh tế - xã hội ở thuộc địa, đặc biệt trong giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Thực tế, đã có nhiều nghiên cứu về lao động di cư, nhưng thường tập trung chủ yếu vào đời sống của người lao động, mối quan hệ xã hội, đặc biệt là sự ngược đãi của một số điền chủ với người lao động. Cuốn sách “Lao động di cư trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc” (nhiều tác giả) đi sâu vào những nghiên cứu làm rõ những cuộc di cư lao động trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của Việt Nam từ những năm 1860 đến những năm 1950, qua đó đưa ra một cái nhìn tổng quan về kinh tế - xã hội và chính trị với các bài viết như “Một ví dụ về di cư phục vụ nhà nước ở Việt Nam: Luật hồi tỵ đối với quan lại chính quy”, “Trưng tập trong hai cuộc chiến hé lộ động lực xã hội - không gian của Đông Dương thuộc địa”, “Lao động Java, Trung Hoa và Bắc kỳ trong các đồn điền cao su ở Nam kỳ thời Pháp thuộc”, “Trung gian địa phương trong mộ phu ở Đông Dương thuộc địa”, “Nguồn văn học đối với nghiên cứu về tòng quân - trường hợp tiểu thuyết tiếng Việt “Tây phương mỹ nhơn””...
Những di dân được nghiên cứu trong cuốn sách vừa là thợ thuyền vừa là thần dân đế quốc, và họ ra đi để lao động. Như trong các chương sách mô tả, họ được trưng dụng trong vô số hoạt động và bối cảnh khác nhau, trong nông nghiệp, công nghiệp, hầm mỏ và quân đội. Trong mỗi bối cảnh này, cả các cơ quan nhà nước lẫn các công ty tư nhân đều đã bóc lột họ vì mục đích phát triển kinh tế, xây dựng chính trị bảo vệ quân sự của đế quốc Pháp.
Theo Giáo sư sử học Andrew Hardy, mỗi chuyên khảo trong cuốn sách này “xứng đáng là trang viết tỉ mẩn về một chương đoạn trong lịch sử kinh tế và xã hội Việt Nam: Sự di cư của một cộng đồng gồm đàn ông, phụ nữ và đôi khi cả trẻ em, quá trình tổ chức di cư đó, từ tuyển mộ tới hồi hương, bối cảnh lao động và quản lý lao động. Cho dù điểm đến là một đồn điền ở Việt Nam, một hầm mỏ ở Tân Calédonie hay một nhà máy ở Pháp thì những nghiên cứu này vẫn là đóng góp quan trọng cho lịch sử di dân và lịch sử lao động”, cung cấp một góc nhìn cơ bản về các biến cố lớn trong lịch sử thuộc địa của Việt Nam, giúp người đọc hiểu rõ hơn bối cảnh kinh tế - chính trị đã thúc đẩy di cư.
Tại sao lại di cư? Nhiều tác giả cho rằng tình trạng nghèo đói và đông dân ở các tỉnh châu thổ là yếu tố quyết định đến sự ra đi của các lao động. Bên cạnh đó, chính quyền cũng có những cơ chế khuyến khích lao động di cư vào Nam kỳ để giảm mật độ dân số ở châu thổ, lập đồn điền, lập ấp ở vùng đất mới.
Trong cuốn sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, nhà văn Sơn Nam cho biết: “Năm Quý Sửu (1853), vua Tự Đức cho phép lập đồn điền, lập ấp ở xứ Nam kỳ theo lời tâu của đình thần”. Trong bối cảnh “đất Nam kỳ liền với giặc Miên, dân xiêu tán nhiều” thì việc “mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn, thật là một cách quan yếu để giữ giặc và yên dân”.
Ngoài ra, khái niệm quê hương hết sức linh hoạt của người Việt cũng là một “động cơ” giúp cho di dân phát triển. Trong cuốn sách “Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, 1864-1888” của tác giả Andrew Hardy, có thể thấy rõ các trường hợp thôn và ấp mới lập thường được đặt theo tên của các thôn quê cũ. Các cư dân ở vùng đất mới nếu là cư dân giàu có thường “mộ người từ quê gốc của mình và các thôn lận cận dưới đồng bằng”.
Theo tác giả Phi - Vân Nguyen, “cho đến nay vẫn khó để thiết lập con số di dân chính xác nhưng ta có thể tin cậy một vài số liệu là số liệu vận chuyển bằng tàu thủy, máy bay và như thế chúng ta có được một phần của bức tranh toàn cảnh”. Các góc nhìn đa dạng về những cuộc di dân của lao động người Việt trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam sẽ khắc họa nên tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của các đế quốc mà Việt Nam là một cấu phần đặc biệt. Nghiên cứu về di dân, bởi thế, có thể “vượt qua khỏi một nghiên cứu di cư đơn thuần, mang đến một góc nhìn từ dưới lên và xuyên quốc gia về biến động lịch sử”.