Những cánh cổng ở cố hương

Thật là vật đổi sao dời ghê gớm. Ai biết được đến một ngày, cả làng thi nhau làm cổng như thế.

Tôi đang ấp ủ một... đề tài nghiên cứu đặc biệt về làng mình - làng Sấu(*). Đó là tìm hiểu xem nhà nào có cái cổng… hoành tráng nhất. Làng tôi bây giờ khoảng hơn 100 hộ nhưng tôi nghĩ để hoàn thành được đề tài trên và rút ra kết luận cuối cùng cũng không phải chuyện dễ. Đơn giản vì cổng rất nhiều nhà đang thể hiện tối đa sự công phu, tỉ mỉ, hoành tráng của mình.

Thôi thì đủ kiểu.

Có nhà thì đắp cổng và làm cánh giả như nhà quan lại thời xưa. Cổng gỗ nặng chịch, trên trổ sư tử, rồng phượng đầy đủ, có cả cái vòng sắt to tướng thay chuông để người tới chơi đập cái vòng ấy gọi cổng. Có nhà lại đắp một con rồng vàng lớn châu đầu vào cái cổng xi măng cây cối phủ kín um tùm. Ở phía đuôi rồng chủ nhà dựng một tấm bia lớn ở chính giữa có hai chữ Hán 迴龍 (hồi long). Hai bên là hai hàng chữ quốc ngữ: “Bớt tham sân si - Quay về bờ giác”. Chữ Hán màu vàng, chữ quốc ngữ màu đen nổi bật trên nền xanh da trời nhìn rất ấn tượng.

Làng Sấu giờ không còn nhà nào để nguyên cổng hay rấp cổng bằng cành rào nữa. Trong ảnh: cổng một ngôi nhà mới xây ở giữa làng.

Làng Sấu giờ không còn nhà nào để nguyên cổng hay rấp cổng bằng cành rào nữa. Trong ảnh: cổng một ngôi nhà mới xây ở giữa làng.

Có nhà thì cả hàng rào và cổng đều làm toàn bằng sắt. Sắt được uốn rất nghệ thuật xong sơn trắng toàn bộ nhìn như biệt thự của các ông quan lớn. Ngông hơn, một ông còn làm nhà to cao mấy tầng, tường bít bùng cao kín đầu người, lắp camera bốn phía, ngoài cổng ông đắp dòng chữ quốc ngữ to vật vã ai đi qua cũng phải lác mắt xem: “Tư dinh…”. Chỗ ba chấm kia là tên thật của ông. Quá khủng khiếp!

Người ở nơi khác đi qua không biết đầu đuôi sẽ cứ tưởng đây là tư dinh của một ông lớn nào đó hoặc ít ra cũng phải là nơi nghỉ ngơi của quan nhất phẩm thượng thư. Có những cái cổng khác thì lại đắp mái nhìn như vọng gác. Các mẫu đó không phải tự nhiên ông chủ hay các ông thợ xây nghĩ ra đâu. Họ học cả đấy! Họ thấy ở các nơi làm cổng thế nào thì họ về bắt chước làm như thế. Khoảng chục năm gần đây người làng tôi tỏa đi khắp nơi kiếm ăn bằng đủ nghề, riêng đội thợ xây có khi đi khắp miền Bắc. Vậy nên mẫu cổng nào họ cũng biết. Chỉ cần gia chủ có tiền và gật là họ làm được ngay.

Khiêm tốn nhất làng có lẽ là cổng nhà tôi nhưng nó cũng là một cánh… cổng sắt!

Thật là vật đổi sao dời ghê gớm. Ai biết được đến một ngày, cả làng thi nhau làm cổng như thế.

Đấy là một hiện tượng, một khung cảnh mà đặt vào bối cảnh của 20 - 30 năm về trước không ai ở làng tôi có thể hình dung được.

Khi tôi 8 - 9 tuổi, cổng các nhà đơn giản lắm. Nhà nào giàu có, sống lâu đời ở giữa làng thì có cổng gạch, cánh gỗ trong đóng bằng then. Tôi nhớ rất rõ những nhà nào có cổng như thế. Có thể kể ra trên đầu ngón tay từng nhà. Thường đấy là những nhà có của ăn của để hơn một chút và ở giữa làng. Làng tôi vốn nghèo, những nhà trước kia bị quy là địa chủ cũng chỉ có ba hoặc năm gian nhà ngói, một cái sân gạch, cổng xây gạch có cánh gỗ là cùng. Nhà nào nhiều nhất cũng chỉ có 6 - 7 sào ruộng và thêm một mảnh vườn. Tuy cổng gỗ đóng cẩn thận như vậy nhưng hầu như lũ trẻ con chúng tôi vẫn có thể trèo tường vào trong nhà họ dễ dàng.

Ngoài cổng một ngôi nhà ở làng Sấu có bờ tường phủ kín dây leo, cây cối của một cán bộ hưu trí.

Ngoài cổng một ngôi nhà ở làng Sấu có bờ tường phủ kín dây leo, cây cối của một cán bộ hưu trí.

Những nhà còn lại có cổng rất giản đơn, thậm chí vô cùng tạm bợ. Thường họ sẽ làm cổng bằng những cành tre được uốn và đan lại. Trụ cổng cũng được làm bằng cây tre. Cánh cổng bằng tre đó tuy được đóng và buộc lại khi chủ nhân đi vắng nhưng nếu cần người ta có thể cởi dây, tháo móc và mở ra dễ dàng. Vậy nên, cho dù cổng đóng, khi có việc cần kíp người làng vẫn mở cổng đi vào trong nhà người khác như thường mà không bị coi là ăn trộm.

Cũng có nhà thì dùng cánh cổng kiểu chống lên khi mở và sập lại khi đóng. Tức là họ làm cánh cổng đan bằng cành tre, làm bản lề phía trên cho cánh có thể đóng mở lên xuống và buộc vào phía dưới cánh một cái cột chống cũng bằng tre. Ban ngày họ chống cái cột đó nâng cánh cổng lên để mở và ban đêm khi đi ngủ thì họ hạ cái cột đó xuống đóng cánh cổng lại. Ở mãi phía trong cổng, họ đóng xuống nền đất một cái cọc có đục lỗ xuyên qua để họ đặt cái cột chống cho cọc xuyên qua lên trên rồi chốt bằng then ngang. Nhờ thế, người ở ngoài không thể mở được cổng.

Những nhà đơn giản nữa thì chỉ “rấp cổng” tức là rào lại cổng bằng một ngọn rào tre. Cái ngọn rào vốn là một ngọn tre nhỏ đã khô này chỉ có tác dụng báo cho người đi qua, người đến biết rằng “chủ nhân đi vắng” thế thôi. Nó chẳng có tác dụng gì về mặt an ninh cả. Nếu muốn, người ta dễ dàng kéo ngọn rào đó sang một bên để đi vào nhà. Nhà bà nội tôi xưa cũng hay “rấp cổng” kiểu này. Mỗi lần vào nhà bà không thấy ai tôi vẫn cứ tự tay túm lấy ngọn rào đó kéo sang một bên rồi thản nhiên đi vào.

Nhiều nhà khác, trong đó có nhà tôi, còn chẳng có cánh cổng. Trước mặt nhà tôi là hàng rào bằng xương rồng và cây hóp. Chỗ cổng thì chừa lại một khoảng làm lối đi vào. Hoàn toàn không có cánh cổng. Cho đến khi tôi học đại học, cổng nhà tôi cũng chẳng có cánh. Có lẽ vì hồi đó trộm cắp lớn không có mà nhà tôi cũng quá nghèo, trộm có vào cũng chẳng có gì để lấy.

Bà cụ ở làng Bến (gần làng Sấu) trước cổng nhà làm bằng cây mà giờ hiếm thấy ở làng của tác giả. Ảnh: Nguyễn Hữu Thông

Bà cụ ở làng Bến (gần làng Sấu) trước cổng nhà làm bằng cây mà giờ hiếm thấy ở làng của tác giả. Ảnh: Nguyễn Hữu Thông

Tài sản lớn nhất của nhà tôi khi đó là cái xe đạp của bố tôi. Trong nhà không có ti vi, tủ lạnh, không có một đồ dùng gì đáng giá. Cả nhà ngủ chỉ có một bộ chõng tre, một cái phản gỗ tạp. Ba cái giường. Nhà bếp thì có vài cái nồi, một cái chảo, mấy cái liềm và ba bốn con dao. Ở nhà chái cạnh bếp thì có một cái cối xay, một cái cối giã gạo. Ở nhà ngang có một bồ thóc nhỏ, một đám lăn lóc khoai tây lẫn khoai lang và một giá sách lớn làm bằng ván gác lên tường ngay trên bàn học của chúng tôi. Tiền và vàng tất nhiên không có. Lương bố tôi khi đó được hơn 200 nghìn đồng. Vừa lãnh xong đã hết. Nếu trộm có vào chắc chỉ bắt mấy con gà hoặc chôm mấy cái nồi. Ở làng tôi lúc đó trộm hay vào làng khoắng mấy thứ như thế.

Vì không có cổng nên nhà tôi rất nhiều khách. Người ra người vào liên miên. Người làng đi qua ghé vào xin nước uống ngồi la liệt quanh bờ giếng dưới gốc cây bưởi. Các bà các chị gỡ nón quạt lia lịa, chuyện trò rôm rả. Quạt bao giờ ráo mồ hôi thì các bà các chị lại ra cổng nhấc gánh lên vai đi về. Hồi đó hầu như tất cả đều đi chân đất, nước giếng múc lên uống xong đem rửa mặt, rửa tay, rửa chân. Ai cũng kêu nước mát. Tôi còn nhỏ hay ngồi bên cửa bếp xem các bà các chị uống nước và nghe lỏm họ trò chuyện.

Cả làng giờ không còn nhà nào để nguyên cổng hay rấp cổng bằng cành rào nữa.

Nhà nào cũng cổng sắt đóng im lìm.

Trẻ con bây giờ khó có thể tưởng tượng ra những cánh cổng đã tồn tại ngày xưa ấy.

Bài và ảnh: Nguyễn Quốc Vương

_________________________

(*) Làng Sấu thuộc xã Liên Chung, huyện Tân Yên, Bắc Giang - một làng nhỏ nằm gần sông Thương, cách thành phố Bắc Giang 25km

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/nhung-canh-cong-o-co-huong-47267.html
Zalo