Những bức thư trước ngày giải phóng

Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng với cựu chiến binh Hồ Trọng Thanh, nguyên chiến sĩ Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân khu 4, ký ức hào hùng của những ngày tháng tham gia chiến đấu giải phóng miền Nam vẫn còn sống mãi. Dù chiến tranh khốc liệt, luôn đối mặt với hiểm nguy nhưng ông vẫn gửi trọn niềm tin chiến thắng và sự lạc quan vào những trang nhật ký và những bức thư gửi về gia đình, người yêu...

Cắm cờ giải phóng tại nhà tỉnh trưởng

Những ngày cuối tháng Ba, chúng tôi đến thăm ông Hồ Trọng Thanh ở xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An khi khắp phố phường, làng quê rực rỡ cờ hoa, chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trò chuyện với chúng tôi, những ký ức rực lửa của những ngày tháng Tư lịch sử năm 1975 lại ùa về trong tâm trí ông. Những câu chuyện của ông là minh chứng sống động cho tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của thế hệ đi trước, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại ngày 30-4-1975.

...Năm 1972, khi vừa tròn 18 tuổi, đang ngồi trên ghế nhà trường, chàng thanh niên Hồ Trọng Thanh đã viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. “Ngày đó, khi chứng kiến và nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin đế quốc Mỹ đánh phá nước ta khắp cả hai miền Nam - Bắc, nhân dân ta bị đàn áp, tra tấn dã man, tôi căm thù lắm. Mặc dù, gia đình chỉ còn mỗi mẹ già, tôi là con trai duy nhất lại đang đi học, nhưng tôi vẫn quyết tâm viết bức huyết thư tình nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc và được nhập ngũ vào Đoàn 22A, Quân khu 4 (đóng ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An)...”, ông Thanh nhớ lại.

Sau thời gian huấn luyện tân binh, ông được điều về Đại đội 14, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 (thời điểm này Sư đoàn 341 phối thuộc cho Quân đoàn 4). Ông cùng đồng đội tham gia nhiều trận đánh, trên nhiều chiến trường như Xuân Lộc, Ấp kiểu Mẫu, Núi Thị, Hồ Nai - Long Khánh, Đồng Nai, Sài Gòn... Với ông, những trận chiến đấu ấy là những ký ức không thể nào quên, bởi trong mưa bom, bão đạn; gian khổ, hy sinh nhưng ông và các đồng đội không bao giờ chùn bước, vẫn luôn đoàn kết, quyết tâm đánh thắng kẻ thù. Ông chia sẻ: “Trong suốt thời gian chiến đấu, có những nhiệm vụ vô cùng vất vả, khó khăn, nhưng những người lính như chúng tôi vẫn rất quyết tâm, đoàn kết để cùng nhau vượt qua. Có thể trong một phút giây nào đó, giữa hòn tên mũi đạn, chúng tôi vẫn trở về đó đã là kỳ tích rồi...”.

 Cựu chiến binh Hồ Trọng Thanh (ngồi ngoài cùng bên trái) ôn lại những kỷ niệm trên chiến trường qua những bức thư, cuốn nhật ký.

Cựu chiến binh Hồ Trọng Thanh (ngồi ngoài cùng bên trái) ôn lại những kỷ niệm trên chiến trường qua những bức thư, cuốn nhật ký.

Có lẽ, ấn tượng sâu sắc nhất với ông là khi được tham chiến dịch tiến công giải phóng thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh (nay là tỉnh Đồng Nai), diễn ra từ ngày 9-4 đến 21-4-1975. Lúc ấy, thị xã Xuân Lộc được coi là “cánh cửa thép” để bảo vệ Sài Gòn từ hướng Đông, địch đã tập trung ở đây một sư đoàn bộ binh, một liên đoàn biệt động quân, một thiết đoàn xe tăng thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh và lực lượng được tổng trù sẵn sàng ứng trợ đặc biệt.

Sau khi nhận lệnh, đêm 8-4, đơn vị ông hành quân vào vị trí tập kết. Đến 4 giờ 30 phút, ngày 9-4, đơn vị vào vị trí chiến đấu theo hiệp đồng, nhưng không may một mũi tiến công của ta bị lộ, địch phát hiện và đánh vào đội hình; những chiếc xe tăng của địch đồng loạt nã pháo vào đội hình chiến đấu của ta khiến anh em thương vong rất nhiều... Dù vậy, tinh thần chiến đấu của bộ đội ta vẫn không hề nao núng. Được lệnh nổ súng, ông và đồng đội đã dội những đòn hỏa lực vào đối phương, trả thù cho đồng đội đã ngã xuống. Cuộc chiến đấu hết sức ác liệt... Đến ngày 21-4, ta đã giải phóng được thị xã Xuân Lộc. Trong niềm vui mừng chiến thắng ấy, ông vinh dự khi cùng một số chiến sĩ trong đơn vị cắm lá cờ giải phóng tại nhà tỉnh trưởng Long Khánh.

Những bức thư từ tiền tuyến

Trò chuyện với chúng tôi, ông Hồ Trọng Thanh chia sẻ: “Cuộc đời tôi phải nói là rất may mắn. Xông pha cầm súng chiến đấu trên các chiến trường, dưới mưa bom bão đạn nhưng vẫn nguyên vẹn trở về. Có được “kỳ tích” ấy, ngoài sự may mắn, linh hoạt trong chiến đấu và sự hỗ trợ của đồng đội, tôi luôn có một niềm tin ngày chiến thắng sẽ đến để trở về với quê hương, với người yêu một lòng thủy chung, chờ đợi...”.

Những năm tháng ở chiến trường dù khó khăn, gian khổ nhưng ông vẫn tranh thủ thời gian lúc nghỉ ngơi bên cánh võng để viết thư về cho gia đình, người yêu. Có thể nói trong chiến tranh, sợi dây kết nối duy nhất giữa ông và quê nhà là những lá thư. Từng câu, từng chữ đều nhuốm màu khói bụi, mộc mạc, giản dị và vô cùng chân thực. Ông kể lại, với nụ cười hiền hòa, rằng chính những suy nghĩ lạc quan, những bức thư tràn đầy tình yêu thương đã trở thành nguồn động viên lớn, giúp ông vượt qua mọi thử thách.

Sự lạc quan, những hy vọng, niềm tin về cuộc chiến tranh chính nghĩa và cả trách nhiệm, sự hy sinh cao cả của người lính đều thấm đẫm trong từng nét bút rắn rỏi gửi gắm tình cảm cho hậu phương. Trong bức thư gửi cho người yêu (bà Dương Thị Phượng, vợ ông hiện nay - PV) ngày 25-2-1974, ông viết: “Cuộc đời người chiến sĩ như anh trong lúc này không biết em có hiểu hết cho lòng anh không? Đất nước còn bóng giặc đường hành quân còn dài. Chiến trường đang vẫy gọi những người như anh. Mai đây không xa do yêu cầu cách mạng anh phải sống xa hậu phương, thư từ ít nhiều bị gián đoạn... Riêng anh vẫn không bao giờ phụ bạc lòng em...”.

Bên cạnh đó, ông cũng động viên người yêu cùng mình thi đua nơi tiền tuyến: “Phượng đi làm nhiệm vụ, điều đó Thanh đâu dám ngăn cản, đó là ước mơ, là nguyện vọng của tuổi trẻ và cũng chính là lý tưởng của tuổi xuân. Phượng đi Thanh vẫn hoàn toàn nhất trí với Phượng, ở đâu cũng nhiệm vụ, ở đâu cũng công tác...”. Thi đua với người yêu nơi tiền tuyến, tại hậu phương - bà Phượng (sau này là vợ của ông Thanh) cũng xung phong tham gia vào lực lượng dân quân. Lúc đó, bà đang phụ trách công tác tuyên truyền tiến bộ khoa học kỹ thuật về cho bà con xã nhà nên lãnh đạo xã đề nghị bà tập trung cho nhiệm vụ quan trọng này.

Những lời động viên, dặn dò và những hứa hẹn đầy tự tin, như một lời khẳng định về chiến thắng đang đến rất gần, ông sẽ lại được sum họp bên gia đình. Bức thư ông viết cho bà Dương Thị Phượng, ngày 7-4-1975, ông khẳng định: “Trong trận đấu này anh không thể hy sinh được vì anh chưa cống hiến được gì cho Tổ quốc, quê hương. Anh phải sống, phải chiến đấu đến cùng để non sông đất nước vĩnh viễn hết đau thương... Anh tin tưởng một ngày gần nhất khi giang sơn đất Việt - Tổ quốc thân yêu - chiến thắng, vùi bọn giặc xuống bùn đen... Anh sẽ dắt tay em đi trên con đường trăng sáng:

Em hãy đợi... em hãy chờ

Ngày đất nước... rợp bóng cờ

Anh trở về... trên nẻo đường”.

Nhấp chén nước, ông lần dở cho chúng tôi xem những trang nhật ký đã cũ, nhiều trang bị ố vàng, nhăn nheo do tác động của thời tiết nơi ông từng sống, chiến đấu và công tác. Tôi cảm giác như đôi bàn tay ấy đang rung nhẹ. Hẳn là biết bao cảm xúc đang dâng đầy trong ông. Cuốn nhật ký ghi lại công việc ông làm quân quản sau Ngày giải phóng miền Nam. Trên trang đầu nổi bật những dòng chữ vỡ òa niềm vui của ông và đồng đội khi được chứng kiến giây phút Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đất nước được nở hoa độc lập: “Hạnh phúc quá! Sung sướng quá! Tự hào quá... Từ nay quê hương đất nước được giải phóng. Lời hứa ngày chiến thắng được về gặp lại mẹ, ôm mẹ, hôn mẹ đang đến gần...”.

Những bức thư và cả cuốn nhật ký của cựu chiến binh Hồ Trọng Thanh trở thành minh chứng lịch sử vô cùng sinh động về lý tưởng sống cao đẹp, hy sinh và cống hiến cho độc lập, tự do của dân tộc, của cả một thế hệ trưởng thành trong chiến tranh. Trong từng lá thư, trang nhật ký của ông đều thể hiện sâu sắc tình yêu gia đình, tình yêu lứa đôi hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc, góp phần làm nên trang sử hào hùng không thể nào quên của dân tộc Việt Nam - Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Bài, ảnh: TRÀ MY

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/phong-su/nhung-buc-thu-truoc-ngay-giai-phong-820943
Zalo