Nhiều tài năng trẻ qua đời phơi bày mặt tối của hệ thống học thuật Trung Quốc
Khi nỗ lực đổi mới và tự lực ở Trung Quốc bước vào giai đoạn tăng tốc, các chuyên gia cho rằng việc cải tổ hệ sinh thái khoa học có thể bỏ qua phúc lợi của những người bên trong.
Cạnh tranh "thăng chức hoặc rời đi"
Ba nhà khoa học trẻ tài năng thuộc các trường đại học hàng đầu Trung Quốc qua đời những tháng gần đây gây xôn xao. Sự việc đó một lần nữa khiến mục tiêu khoa học đầy tham vọng và hệ thống học thuật khắc nghiệt của Trung Quốc bị đặt dưới sự soi xét.
Dù chưa trường đại học nào đưa ra thông báo chính thức về trường hợp tử vong, những sự kiện này lại khơi dậy sự chỉ trích về hệ thống nhân tài còn nhiều bất cập ở Trung Quốc, đặc trưng bởi cạnh tranh khốc liệt, có thể đẩy các học giả trẻ tới giới hạn chịu đựng của họ.
Những vấn đề trong hệ thống học thuật Trung Quốc gồm chạy đua vào biên chế với nguyên tắc “thăng chức hoặc rời đi”, cơ hội nhận tài trợ ngày càng giảm và khối lượng công việc khổng lồ.
Guo Yingjian, giáo sư tiếng Anh tại Đại học Nhân dân Trung Quốc (ở thủ đô Bắc Kinh), cho biết: “Số lượng lớn những trường hợp học giả trẻ qua đời sớm như vậy không thấy xuất hiện ở các quốc gia khác”.

Trung Quốc đã tăng cường đổi mới và thúc đẩy tự lực trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ với Mỹ - Ảnh: Edmond So
Khi Trung Quốc đẩy mạnh đổi mới và tự lực trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ với Mỹ, các chuyên gia nói rằng việc cải tổ hệ sinh thái khoa học đã trở thành ưu tiên quốc gia nhưng lại bỏ qua phúc lợi của những người bên trong.
Ngày 4.8, Du Dongdong (35 tuổi, nhà khoa học tại khoa Kỹ thuật Hệ thống Sinh học và Khoa học Thực phẩm của Đại học Chiết Giang) qua đời sau một “cú ngã từ trên cao” trong khuôn viên trường, theo các nền tảng mạng xã hội học thuật và tờ Caixin. Du Dongdong là người hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ, chuyên nghiên cứu về thiết bị thu hoạch trái cây, rau củ, robot nông nghiệp và robot mềm mô phỏng sinh học.
Cũng trong tháng 8, Huang Kai, phó giáo sư tại Viện Công nghệ Technion–Israel Quảng Đông, qua đời ở tuổi 41, cũng sau một “cú ngã từ trên cao”, theo truyền thông Trung Quốc. Mới kết hôn hồi tháng 7, Nhà hóa học này nhận bằng cử nhân tại Đại học Bắc Kinh năm 2006, rồi lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Toronto (Canada) năm 2011 dưới sự hướng dẫn của John Polanyi.
Trước khi về Trung Quốc, Huang Kai từng làm việc tại Đại học Toronto và Viện Fritz Haber thuộc Hiệp hội Max Planck (Đức).
John Polanyi là nhà hóa học gốc Đức, quốc tịch Canada, đoạt giải Nobel năm 1986 cùng với Dudley R. Herschbach và Yuan T. Lee, nhờ công trình nghiên cứu về “động học phản ứng hóa học”, đặc biệt là việc phát triển các phương pháp để quan sát những quá trình cơ bản xảy ra khi các phân tử va chạm và phản ứng với nhau.
Ông John Polanyi đoạt giải Nobel năm 1986
Sinh năm 1929, John Polanyi đã đóng góp quan trọng trong việc làm sáng tỏ cơ chế chuyển động năng lượng và sự hình thành sản phẩm trong các phản ứng hóa học, qua đó mở đường cho nhiều ứng dụng trong hóa học, vật lý và công nghệ laser. Ngoài khoa học, ông John Polanyi còn tích cực tham gia thảo luận về kiểm soát vũ khí và trách nhiệm xã hội của giới khoa học.
Trước đó, Dong Sijia, trợ lý giáo sư tại Trường Năng lượng và Tài nguyên Bền vững của Đại học Nam Kinh, qua đời ở tuổi 33. Cái chết của Dong Sijia được nhắc đến trong một bài báo mà cô là tác giả chính, đăng trên tạp chí Science Advances hồi tháng 6.
Ảnh chân dung Dong Sijia trên trang web Đại học Nam Kinh được đổi sang đen trắng hồi tháng 8, nhưng trường chưa xác nhận hay bình luận về cái chết của cô.
Là nhà khoa học đầy triển vọng trong lĩnh vực nghiên cứu biển sâu, Dong Sijia đã có những đóng góp được quốc tế công nhận cho ngành hóa học biển và công trình của cô từng được đưa vào một giáo trình Mỹ. Theo đồng nghiệp, Dong Sijia đã viết một bản đề xuất xin tài trợ gửi đến Quỹ Nhà khoa học trẻ xuất sắc trong năm 2025.
Nghiên cứu biển sâu là lĩnh vực khoa học tìm hiểu về những vùng biển nằm ở độ sâu lớn của đại dương, nơi ánh sáng Mặt trời hầu như không tới được. Nó bao gồm việc khảo sát địa hình đáy biển, hệ sinh thái, sinh vật, hóa học nước, địa chất, khoáng sản, cũng như các hiện tượng vật lý xảy ra trong môi trường áp suất cao, nhiệt độ thấp.
Mục tiêu của nghiên cứu biển sâu là khám phá sự đa dạng sinh học, tìm hiểu các quá trình địa chất (núi lửa ngầm, mạch phun thủy nhiệt), đánh giá tài nguyên và tác động của con người (khai thác, rác thải, biến đổi khí hậu) với đại dương. Đây là ngành liên ngành, kết hợp sinh học, địa chất, hải dương học, hóa học biển và công nghệ robot/tàu lặn chuyên dụng để tiếp cận những khu vực mà con người khó chạm tới.
Gia tăng số vụ tự tử trong môi trường học thuật Trung Quốc
Những cái chết thời gian qua của nhiều học giả, nhà nghiên cứu tại Trung Quốc, gồm cả nhà khoa học trí tuệ nhân tạo (AI) hàng đầu, đã gây ra sự bàn tán trong công chúng về điều kiện làm việc và áp lực mà giới khoa học ở đây đang phải đối mặt. Nhiều bài báo ghi nhận sự ra đi đột ngột và sớm của nhiều người trong cộng đồng này vì bệnh tật, tai nạn và tự tử.
Vào tháng 5, nghiên cứu được công bố trên tạp chí Preventive Medicine Reports được bình duyệt ngang hàng cho thấy, trái ngược hoàn toàn với sự suy giảm chung về tỷ lệ tự tử ở Trung Quốc vài thập kỷ qua, môi trường học thuật lại chứng kiến "sự gia tăng đáng lo ngại" về số vụ tự tử.
Nghiên cứu, do Cary Wu từ Đại học York ở Canada cùng các sinh viên từ Đại học Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh là đồng tác giả, đã phân tích cơ sở dữ liệu gồm 143 trường hợp tự tử của sinh viên sau đại học và học giả Trung Quốc. Trong số đó, 130 trường hợp xảy ra trong nước liên quan đến nghiên cứu sinh và giảng viên – phần lớn đến từ các cơ sở nghiên cứu hàng đầu.
Phân tích của nhóm cho thấy đa số trường hợp là nam giới trẻ, xuất thân từ các chương trình khoa học - kỹ thuật tinh hoa. Áp lực học tập được coi là yếu tố chủ đạo, chiếm 65% số vụ tự tử.
Những thập kỷ gần đây, Trung Quốc chứng kiến nguồn cung tiến sĩ tăng nhanh, phản ánh xu hướng toàn cầu. Cùng với lượng lớn tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài quay về, các nhà nghiên cứu trẻ muốn theo đuổi sự nghiệp học thuật tại Trung Quốc phải cạnh tranh khốc liệt về công bố, tài trợ, chức danh và cuối cùng là vị trí biên chế.
Số người có bằng tiến sĩ tại Trung Quốc chỉ là 7.300 vào năm 1997, nhưng đến 2019 đã vượt 100.000.
Chủ yếu do bối cảnh nguồn cung đang thay đổi, một số đại học hàng đầu Trung Quốc đã bắt đầu áp dụng hệ thống biên chế kiểu Mỹ từ đầu những năm 2000, với mục tiêu cạnh tranh để thúc đẩy năng suất nghiên cứu và hiện đại hóa hệ thống giáo dục đại học. Thường được gọi là “thăng chức hay bị loại”, hệ thống này thường quy định giai đoạn làm việc cố định 6 năm, trong đó nhà nghiên cứu phải đạt tiêu chí để được thăng chức phó giáo sư và nhận biên chế – nếu không sẽ bị loại. Tuy nhiên, hệ thống đó ở Trung Quốc ngày càng vấp phải chỉ trích.
Trong một bài viết đăng trên China Science Daily ngày 20.8, You Xiaoli, giáo sư tại Khoa Chính trị & Hành chính công của Đại học Tô Châu, phê phán việc quản lý ở các cơ sở nghiên cứu Trung Quốc thiếu ý thức bồi dưỡng nhà nghiên cứu trẻ ở giai đoạn trước khi vào biên chế. Thay vào đó, họ coi đây là quá trình sàng lọc hay cuộc thi, bà nói.
Do đó, các trường tìm cách tối đa hóa số lượng người tham gia, đồng thời tuân theo nguyên tắc “đầu tư tối thiểu, đầu ra tối đa”, thường xuyên vi phạm hợp đồng bằng cách giảm tài trợ, trợ cấp hoặc thay đổi tiêu chí đánh giá mà không có lý do chính đáng, You Xiaoli viết.
Theo trang SCMP, một học giả chuyên về giáo dục tại Đại học Bắc Kinh (từ chối nêu tên) cho biết hệ thống biên chế của Trung Quốc dù dựa trên mô hình Mỹ nhưng không giống hoàn toàn. Một điểm khác biệt ở Trung Quốc là các nhà nghiên cứu phải cạnh tranh với nhiều ứng viên, kể cả ở lĩnh vực khác, để giành biên chế. Trong khi ở Mỹ, việc đánh giá dựa trên cá nhân, phụ thuộc vào năng lực của chính nhà nghiên cứu.
Chịu áp lực lớn hơn để giành nguồn tài trợ quốc gia
Do dư thừa tiến sĩ ngày càng tăng, nhóm này cũng phải chịu áp lực lớn hơn trong việc giành nguồn tài trợ quốc gia so với trước. Từ năm 2011 đến 2016, khoảng 24% người nộp hồ sơ nhận được tài trợ từ Quỹ Khoa học Tự nhiên Quốc gia Trung Quốc (NSFC) – nguồn tài trợ nghiên cứu cơ bản chính của nước này. Song đến năm 2021, con số giảm xuống 16,51%. Đà giảm tiếp tục, năm 2025, chỉ khoảng 12% nhà nghiên cứu nhận được hỗ trợ từ NSFC.
Tuy vậy, bà Fan Xiudi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đánh giá Giáo dục tại Đại học Đồng Tế (ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc), cho rằng cần phân tích kỹ hơn để xác định nguyên nhân gia tăng số vụ tử vong trong giới giảng viên trẻ, có thể gồm tai nạn, bệnh tật hoặc vấn đề gia đình.
“Hiện nay, công chúng thường quy những bi kịch này cho áp lực công việc và hệ thống ‘thăng chức hay rời đi’, rồi dễ dàng trút bức xúc. Điều đó không giúp giải quyết tận gốc vấn đề”, bà nói.
Gần 40 năm làm việc trong giáo dục đại học, bà Fan Xiudi nhận thấy áp lực với các học giả trẻ Trung Quốc ngày càng gia tăng, gồm các nhiệm vụ hành chính nặng nề và sự theo đuổi không ngừng các chức danh, công bố, giải thưởng – được thúc đẩy bởi nỗi sợ tụt lại trong môi trường cạnh tranh.
Những năm gần đây, chính quyền trung ương Trung Quốc và các chuyên gia đã kêu gọi nỗ lực tạo ra môi trường năng động, cởi mở hơn nhằm khuyến khích đổi mới. Tại kỳ họp thường niên của cơ quan lập pháp và tư vấn chính trị hàng đầu Trung Quốc năm ngoái, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Yin Hejun (Ân Hạc Quân) đã công bố các sáng kiến hỗ trợ các học giả trẻ, gồm tăng tài trợ, giảm tần suất đánh giá, cắt giảm công việc hành chính để bảo đảm họ có môi trường ổn định, sự hỗ trợ và đủ thời gian cho nghiên cứu.