Nhà thơ Dương Khâu Luông với những vần thơ thơm hương bjoóc mạ

Trong thế hệ các nhà thơ dân tộc Tày, Dương Khâu Luông (tên thật là Dương Văn Phong) thuộc thế hệ thứ ba kế tiếp truyền thống của các cây bút thế hệ đi trước như: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân, Ma Trường Nguyên, Mai Liễu, Y Phương, Dương Thuấn… Đọc thơ Dương Khâu Luông, dấu ấn văn hóa bản địa đã thấm đẫm trong từng câu chữ. Những sự vật thân quen gần gũi như nhành cây, ngọn cỏ, mái nhà, dòng sông… là những mạch nguồn chảy mãi nuôi dưỡng hồn thơ anh. Chất xúc tác đó đã làm cho thơ Dương Khâu Luông gần gũi, dễ nhớ, dễ cảm và lay động trái tim độc giả yêu thơ.

 Hồ Ba Bể. Ảnh: Đăng Hải

Hồ Ba Bể. Ảnh: Đăng Hải

Sinh ra và lớn lên trong không gian văn hóa Tày phong phú và đậm đà của vùng hồ Ba Bể, từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ Dương Khâu Luông đã được dung dưỡng sâu sắc bởi những câu chuyện cổ và những làn điệu dân ca Tày. Cùng với vốn tiếng Tày phong phú, những bài thơ Tày của nhà thơ Dương Khâu Luông luôn hàm chứa nhiều tri thức, hiểu biết về văn hóa bản địa, anh đặc biệt chú ý đến việc khai thác vốn truyền thống văn hóa của dân tộc mình. Nhà thơ Dương Khâu Luông trải nghiệm và nghiên cứu, học hỏi trong không gian văn hóa của dân tộc Tày, đồng thời kết hợp với những tri thức hiểu biết khác để sáng tạo tác phẩm.

Dành trọn cuộc đời gắn bó với mảnh đất Bắc Kạn, với Dương Khâu Luông, Bắc Kạn là Đất Mẹ. Thơ anh là nguồn cảm xúc trong sáng được nuôi dưỡng từ nguồn sữa ngọt lành của Đất Mẹ - Quê hương Bản Hon; ngắn gọn mà sâu sắc, mộc mạc mà chân thành; không cầu kỳ, trau chuốt, cứ bình dị, chân chất nhưng giàu nhịp điệu ngấm vào lòng độc giả, như thưởng thức rượu men lá ngọt ngào, êm dịu nhưng say lúc nào chẳng biết. Đồng nghiệp, độc giả trân trọng anh ở sự nghiêm túc và bền bỉ, cùng với những đóng góp của anh dành cho văn hóa truyền thống đặc biệt là văn hóa Tày Bắc Kạn. Hầu hết các tập thơ đều mang trong mình hình bóng của Bản Hon- quê hương anh, một bản vùng cao yên bình, giản dị nhưng nơi đây đã sản sinh ra hai nhà thơ thành danh trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại, Dương Khâu Luông và anh trai ruột, nhà thơ Dương Thuấn.

 Một góc phía Đông hồ Ba Bể. Ảnh: Vũ Kim Khoa

Một góc phía Đông hồ Ba Bể. Ảnh: Vũ Kim Khoa

Bài hát "Mời anh ghé Bắc Kạn quê em" phổ thơ Dương Khâu Luông.

Ngay từ nhỏ cậu bé Dương Khâu Luông đã thể hiện năng khiếu văn chương. Từ khi học cấp 2, Dương Khâu Luông đã tìm đọc khá nhiều sách của các nhà văn nổi tiếng trong và ngoài nước. Cậu mê học văn và cứ như bị thôi miên từ các bài giảng văn của thầy cô giáo. Mê say và ngưỡng mộ những nhà văn có tên tuổi, cậu mong ước một ngày nào đó được tận mắt nhìn thấy các nhà văn Việt Nam bằng xương, bằng thịt và muốn biết ngôi nhà của những người viết văn đặc biệt thế nào?

Tình yêu văn chương của cậu bé lớn dần lên cùng với niềm mơ ước được đứng trong giảng đường trường đại học nào đó có môn văn. Niềm mơ ước đã trở thành hiện thực khi chàng trai Bản Hon đã thi đỗ Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (nay là Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên) khóa 18 (1983-1987).

Bài then Chứ Hội xuân Slam Pé (Nhớ Hội xuân Ba Bể), lời thơ Dương Khâu Luông, biểu diễn Nghệ nhân Bảo An.

“Những năm tháng là sinh viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc là những ngày tháng vô cùng đẹp, không thể nào quên. Chúng tôi luôn tự ý thức được rằng chính các thầy cô và mái trường đã chắp cánh ước mơ. Riêng với bản thân, nếu không được các thầy cô Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc trang bị kiến thức và kỹ năng sống, thì tôi không thể có một chút thành công như ngày hôm nay. Khoa Văn là nơi đã chắp cánh ước mơ, cho tôi được trở thành một thầy giáo và nhà thơ. Tôi mãi biết ơn”.

Nhà thơ Dương Khâu Luông

Sau khi tốt nghiệp đại học, Dương Khâu Luông trở thành thầy giáo dạy văn tại Trường THPT Pò Tấu (huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng). Sau 4 năm gắn bó mảnh đất Pò Tấu xa xôi, năm 1992, anh được tổ chức điều chuyển về Trường THPT Ba Bể, huyện Ba Bể (Bắc Kạn). Hơn 10 năm (1992 – 2005), thầy giáo Dương Khâu Luông gắn bó với nghề dạy học và chính từ mái trường này, thầy tiếp tục thổi niềm đam mê văn chương cho học sinh. Văn chương là cầu nối chàng trai Bản Hon năm xưa đến với nhiều vùng miền đất nước. Nhận thấy tố chất thi ca và năng lực quản lý, năm 2006 lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn đã giao cho Dương Khâu Luông đảm nhiệm công tác mới tại Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn.

Trong giai đoạn này, Dương Khâu Luông đã cùng các nhà thơ Triệu Kim Văn, Văn Lợi, Ma Phương Tân… từng bước xây dựng đội ngũ những người sáng tạo văn chương nói riêng và văn học nghệ thuật tỉnh nhà nói chung, đưa văn học nghệ thuật Bắc Kạn tạo được những ấn tượng trong văn học nghệ thuật cả nước. Anh được đánh giá là một trong những cây bút tiêu biểu “có tác phẩm tốt, đạt nhiều giải thưởng về văn học nghệ thuật ở cả Trung ương và địa phương…”.

 Nhà thơ Dương Khâu Luông (thứ ba từ phải sang) cùng đội ngũ văn nghệ sĩ tỉnh Bắc Kạn.

Nhà thơ Dương Khâu Luông (thứ ba từ phải sang) cùng đội ngũ văn nghệ sĩ tỉnh Bắc Kạn.

Năm 2017, anh sáng tác tập thơ “Lặng lẽ mùa hoa mạ” (Cỏi dằng slì bjoóc mạ), tập thơ đã hình thành một phong cách riêng có của anh. Với 65 bài thơ song ngữ Tày – Việt rất ngắn gọn, mỗi bài chỉ 3 câu. Tuy vậy, nội dung ý nghĩa của mỗi bài thơ lại rất sâu sắc, vì nó mang đậm tính triết học và sự trải nghiệm. Trong thể thơ này, nhà thơ Dương Khâu Luông đã vận dụng sáng tạo từ lối nói “Phuối pác” của người Tày, dù hình thức diễn xướng này đã dần mai một, còn rất ít người biết và sử dụng. Đọc các bài trong tập thơ này ta cũng liên tưởng đến thể thơ Haiku nổi tiếng của Nhật Bản.

 Nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày là cảm hứng trong hầu hết các sáng tác của nhà thơ Dương Khâu Luông. Ảnh: Đăng Hải

Nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày là cảm hứng trong hầu hết các sáng tác của nhà thơ Dương Khâu Luông. Ảnh: Đăng Hải

Phuối pác (đối đáp)- một thể loại âm nhạc dân gian của người Tày. Có nhà nghiên cứu đã tạm xếp thể loại này vào nhóm âm nhạc giao duyên. Đây là những lời hát có tính đối đáp, ứng khẩu với từng cảnh ngộ trên cơ sở của sự ứng tác nhanh trí, sáng tạo, có vần có điệu. Việc thể hiện bài hát ở đây không khó nhưng cái khó là khả năng xuất khẩu thành thơ để hát.

Theo Dương Khâu Luông, bjoóc mạ là một thể thơ được phát triển từ lối nói “Phuối pác”, tức là hình thức đối đáp dân gian của người Tày Bản Hon nói riêng và người Tày vùng hồ Ba Bể nói chung. Lối nói đối đáp này rất ngắn gọn, súc tích, có vần và gần gũi với đời sống sinh hoạt hằng ngày, thường chỉ có hai câu hoặc ba câu, cũng có lúc dài hơn nhưng không chia tách thành từng bài cụ thể.

 Bjoóc mạ là hoa của then trời, hoa gắn với những điều cao thượng, sang trọng, linh thiêng, trong sáng. Hoa được dùng trong nghi lễ lẩu then. Loài hoa này là nguồn cảm hứng để Dương Khâu Luông sáng tạo ra thể thơ Bjoóc mạ.

Bjoóc mạ là hoa của then trời, hoa gắn với những điều cao thượng, sang trọng, linh thiêng, trong sáng. Hoa được dùng trong nghi lễ lẩu then. Loài hoa này là nguồn cảm hứng để Dương Khâu Luông sáng tạo ra thể thơ Bjoóc mạ.

Do tiện lợi, linh hoạt, lại có thể sử dụng ở mọi lúc, mọi nơi nên lối đối đáp này được nhiều người yêu thích, nhất là trong việc tìm hiểu nhau của nam nữ thanh niên. Người tham gia đối đáp cần phải có phản xạ nhanh và một vốn hiểu biết cũng như ngôn từ phong phú. Có thể nói đây là một hình thức thử thách tài năng của nhau. Chẳng hạn mấy lời đối đáp sau của nam thanh nữ tú khi tìm hiểu nhau:

- Nữ: Bấu lụ lỏ pây cón mà lăng/Cằm hâư chắng thúc slim pỉ đẩy? (Không biết lối đi trước về sau/Nói lời nào cho vừa lòng anh được?).

- Nam: Thỏ lụ lỏ pây cón mà lăng/Cằm hâư củng thúc cằm pỉ đẩy (Em vốn biết lối đi trước về sau/Nói lời nào cũng vừa lòng anh cả).

Hoặc khi nói về chuyện ép duyên trong xã hội cũ ngày xưa người con gái nói: Slíp cần slip mà ép/ Pét cần pét mà soi/Soi hâử noọng lồng vằng pây áp (Cả mười người đều ép/Cả tám người đều xui/Xui em xuống vực sâu đi tắm)…

 Bếp lửa trong tâm thức của người Tày là nơi gắn kết các thế hệ trong gia đình. Ảnh: Đăng Hải

Bếp lửa trong tâm thức của người Tày là nơi gắn kết các thế hệ trong gia đình. Ảnh: Đăng Hải

Xuất phát từ thực tế trên, tác giả đã có ý tưởng sáng tác thể thơ Bjoóc mạ với sự cách tân mới về hình thức thể hiện. Qua dư luận bạn đọc thấy nhiều người quan tâm, hưởng ứng; đặc biệt là những người có tâm huyết với bản sắc văn hóa và thơ văn của dân tộc Tày.

“Đây là một lối thơ ngắn, mỗi bài ba câu, hàm súc nhưng cũng đầy sinh động và ý nghĩa sẽ phù hợp với việc tiếp nhận của bạn đọc. Mặt khác cũng hy vọng sẽ góp phần làm phong phú thêm cho thơ Tày trong xu thế đổi mới và phát triển chung của thơ ca hiện nay”

Nhà thơ Dương Khâu Luông bày tỏ

Năm 2003, Dương Khâu Luông đánh dấu con đường đến với văn học bằng tập thơ đầu tiên dành cho thiếu nhi “Gọi bò về chuồng”. Đến nay anh đã có 11 tập thơ, trong đó đa phần là thơ song ngữ Tày – Việt. Hầu hết các sáng tác của anh đều về văn hóa Tày, hay nói gần hơn là về Bắc Kạn, nhiều nhất chính là Bản Hon, quê hương anh.

Với Dương Khâu Luông, sáng tác trước hết là để chia sẻ tâm tư, tình cảm với mọi người, sau là để góp phần lưu giữ bản sắc văn hóa Tày. Đọc thơ anh, người đọc dễ nhận thấy dấu ấn địa văn hóa thấm đẫm trong từng trang viết, khởi thức trong lòng tác giả niềm tự hào về quê hương.

Là người con của dân tộc Tày, lớn lên trong “ngôi nhà sàn bốn mái ở đầu bản Hon”, Dương Khâu Luông luôn trân quý nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình.

“Người ở bản

Lấy đá làm nhà

Lấy đá quây bờ rào

Lấy đá kê đất trồng rau

Lấy đá làm cầu qua sông, qua suối

Đục đá mở đường lên núi”

(Người ở bản)

Có thể thấy hầu hết các tập thơ của Dương Khâu Luông, cảm hứng luôn trân trọng, gìn giữ những nét đẹp văn hóa của dân tộc thiểu số. Những nét chấm phá sáng tạo mới mẻ nhưng không quên lưu lại quá khứ truyền thống dân tộc, trong thơ anh luôn kế thừa yếu tố truyền thống nhưng cách tân theo hướng hiện đại. Những vần thơ của anh vừa mộc mạc, hồn hậu của con người miền núi, vừa tinh tế, sâu xa. Mỗi bài thơ, mỗi ý thơ của anh là khám phá mới mẻ về cuộc sống, về con người.

 Hát then - đàn tính, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Tày. Ảnh: Quốc Khánh

Hát then - đàn tính, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Tày. Ảnh: Quốc Khánh

Thơ Dương Khâu Luông diễn tả tình quê hương mộc mạc mà chân tình. Qua các tập thơ của anh, có thể khẳng định nhà thơ người Tày ý thức rất sâu sắc việc sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ. Dương Khâu Luông là một trong số ít những nhà thơ dân tộc thiểu số sáng tác nhiều bằng tiếng Tày. Nhà thơ ý thức sâu sắc tầm quan trọng, sự cần thiết sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ:

Là người Tày không biết tiếng Tày

Như cái cây không biết đâu là gốc

Cây có xanh nhưng hồn cây sẽ héo

Lá xanh mượn được nhưng hồn làm sao thay.

(Là người Tày không biết tiếng Tày)

Cuốn Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại đã ghi danh nhà thơ Dương Khâu Luông với Suy nghĩ về nghề văn: “Người Tày có câu: Lảc mạy tển, lảc cần lì – nghĩa là Rễ cây thì ngắn, tình người thì dài. Tác phẩm văn chương cũng vậy, có sống được hay không là do chính cái tình của nó. Cái tình của tác phẩm lớn thì sẽ đến được với nhân loại”.

Thơ Dương Khâu Luông cũng như chính con người anh, tình yêu văn hóa Tày như chảy trong tim, trong hơi thở. Văn hóa truyền thống của người Tày luôn là rường cột cho mọi sáng tác của anh. Vừa giản dị, chân thành, vừa mộc mạc, trong trẻo nhưng cũng đầy triết luận. Đọc thơ anh ta luôn thấy sự hồn nhiên trong trẻo như ngọn gió rừng, như suối nguồn trong mát, như hoa “bjoóc mạ” luôn lặng lẽ tỏa hương./.

.

Hồng Hạnh. Đồ họa: Ngọc Hiển - Quang Duy

Nguồn Bắc Kạn: https://baobackan.vn/nha-tho-duong-khau-luong-voi-nhung-van-tho-thom-huong-bjooc-ma-post68936.html
Zalo