Nhà nước Nam Cương - Âu Lạc
Cao Bằng, mảnh đất địa đầu Tổ quốc - nơi địa linh sinh nhân kiệt đã góp phần to lớn vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Từ “buổi đầu dựng nước”, Cao Bằng là nơi cư tụ của bộ lạc Âu Việt (còn gọi là Tây Vu, Tây Âu, Tây Âu Lạc) - một trong hai bộ lạc đầu tiên (Lạc Việt, Âu Việt) cùng xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Thủ lĩnh của bộ lạc Âu Việt là Thục Phán. Giáo sư Đào Duy Anh, trong “Đất nước Việt Nam qua các đời” đã viết: “Bộ lạc Tây Vu là bộ lạc căn bản của Thục Phán, nguyên trước kia chỉ là miền thượng lưu sông Lô, bao gồm cả miền thượng lưu sông Gâm và sông Chảy, tức miền Cao Bằng, Hà Giang và Bắc Tuyên Quang ngày nay. Địa bàn này là nơi cư trú chủ yếu của người Tày”.
Theo truyền thuyết thì Thục Chế làm vua nước Nam Cương 60 năm, thọ 95 tuổi, khi Thục Chế mất, con là Thục Phán tuy còn ít tuổi nhưng được thay thế vua cha lên làm vua nên các chúa không quy phục. Cả chín chúa mường đều đem quân về bao vây kinh thành đòi nhường lại ngôi vua. Thục Phán tuy còn nhỏ tuổi nhưng tỏ ra là người thông minh tài cán, trí tuệ hơn người. Thục Phán tổ chức cho 9 chúa lần lượt cùng nhau thi đấu võ, ai thắng sẽ được nhường ngôi vua, kết quả đấu võ bất phân thắng bại, nên không ai được nhường ngôi vua. Thục Phán lại bày ra cuộc đua tài: ai giỏi nghề gì làm nghề đó, hẹn 3 ngày 3 đêm thì cuộc thi kết thúc, ai hoàn thành đúng hạn là giành phần thắng sẽ được làm vua. Mỗi chúa một việc thách nhau.
Truyền thuyết chỉ ra nhiều di tích, nhiều việc làm bị bỏ dở trong cuộc đua tài của các chúa, nay các địa điểm vẫn còn và là những địa danh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong sinh hoạt đời sống của nhân dân. Đó là các địa danh liên quan đến 9 chúa trong cuộc thi tài.
Chúa Hoàng Tiến Đạt đi nhổ mạ ở Phiêng Pha, xã Mai Long (Nguyên Bình) đem về cấy ở cánh đồng Tổng Chúp, xã Hưng Đạo (thành phố Cao Bằng); Chúa Lâm Tuyền Thượng nung gạch bị quá lửa kết thành quặng, đó là Mỏ Sắt, xã Dân Chủ (Hòa An); Chúa Nông Quang Thạc đi lấy trống, ngủ say, trống lăn xuống vực, đó là Tổng Lằn, xã Thịnh Vượng (Nguyên Bình); Chúa Lý Kim Đán bắn cung để sót lá đa, nay vẫn còn cây đa trước kinh thành; Chúa Lương Ngọc Tặng đóng thuyền chưa kịp lật, đó là đồi Khau Lừa - tức đồi thuyền, thuộc thị trấn Nước Hai (Hòa An); Chúa Hà Thành Giáng xây thành không hoàn tất cửa đông - thành Nà Lữ, xã Hoàng Trung (Hòa An); Chúa Lục Văn Thắng đẽo đá làm guốc, chưa xỏ quai ở đầu gò, xã Hưng Đạo (thành phố Cao Bằng); Chúa Đàm Viết Dũng làm không trọn nghìn bài thơ, bỏ lại bút nghiên cũng tại kinh thành; Chúa Trương Thiết Vận mài lưỡi cày thành kim khâu, chưa hoàn tất (chưa kịp xỏ lỗ).

Cánh đồng Tổng Chúp, xã Hưng Đạo (Thành phố). Ảnh: Thế Vĩnh
Bên cạnh truyền thuyết, các yếu tố về ngôn ngữ, địa danh cũng góp phần giúp các nhà nghiên cứu đưa ra những giả thuyết về nhân vật Thục Phán và vị trí địa bàn lãnh thổ nước Nam Cương.
Về địa danh vẫn lưu truyền tên gọi của người Tày cổ (Tây Âu - Tày Hâu). Thời kỳ người Âu Việt chưa lập quốc còn là những bộ lạc. Đứng đầu bộ lạc có cốc bản, cốc mường (gốc bản, gốc mường). Sử ta ghi là bồ chính (tức pú chính) có nghĩa già làng, người đứng đầu công xã.
Những bộ lạc cư trú gần nhau họp thành liên minh, tôn bồ chính, bộ lạc nào đông người, giàu có hơn, có thế lực hơn được tôn làm trưởng, gọi là Chúa đất. Mọi người gọi chung tộc người mình sinh sống cùng nhau là Tày Hây hay Tày Hâu (có nghĩa người Tày chúng ta - người Tày mình), cư trú ở vùng Tây Âu. Có lúc gọi vùng này là đất Tây Vu vì người Tày thời đó tôn ông Pụt (bụt), ông Giàng làm phụ đạo (cha dẫn đường) thủ lĩnh bộ lạc.
Các cộng đồng cư dân ở Tây Âu với bản tính sống đơn giản, mộc mạc, chất phác, các chúa đất vùng Tây Âu ít va chạm nội bộ, họ thường thể hiện sự giúp đỡ tương trợ giữa các xứ khi gặp khó khăn hoạn nạn.
Đất Tây Âu giáp với phía Nam của Trung Quốc nên người Trung Quốc trước đây gọi vùng phía Nam này là Nam Cương (có nghĩa là nơi giới hạn đất đai - lãnh thổ ở phía Nam, có lẽ vì vậy mà có tên gọi nước Nam Cương).
Theo truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa”, thì xứ Cao Bình là của Thục Chế (trưởng liên minh các bộ lạc Tày), có thế lực lớn. Cao Bình ở trung tâm Tây Âu. Khi cuộc họp tranh tài diễn ra thì các chúa đất ở các vùng thuộc lưu vực sông Lô, sông Gâm, bắc sông Cầu có thể đến dự họp bằng ngựa, còn các chúa đất lưu vực sông Hữu Giang, Tả Giang, Uất Giang và cả Kỳ Cùng đều đến được bằng thuyền, bè.
Theo Viện sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Lịch sử Việt Nam, “Hiện tại, còn dấu vết của một tòa thành ở Cao Bằng, dân gian gọi là thành Bản Phủ. Tương truyền đây là thành của Tục Pắn (Thục Phán), người đã giành chiến thắng được tôn làm vua nước Nam Cương sau cuộc đua tài “Cẩu chủa cheng vùa” (Chín chúa tranh vua). Thành này có hai lớp tường thành đất bao bọc gợi ra truyền thống đắp thành Cổ Loa sau khi An Dương Vương rời Cao Bằng xuống đóng đô ở đồng bằng. Vị trí của thành Bản Phủ, Cao Bằng khá phù hợp với vị trí của Tây Âu ở thế kỷ III trước công nguyên, hoặc vị trí của huyện Tây Vu sau khi bị nhập vào Nam Việt rồi Tây Hán”.
Đó là tòa thành tại Kinh đô Nam Bình. Kinh đô xưa của nước Nam Cương, gồm hai vòng thành vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Tại kinh đô Nam Bình, Thục Phán đã tổ chức nhiều cuộc thi và giành thắng lợi trước các chúa. Nay các địa danh, các câu chuyện gắn liền với cuộc thi vẫn còn in sâu đậm trong ký ức nhân dân, và trong tâm thức nhân dân vẫn còn nhiều tập tục - có thể gọi là một loại hình văn hóa tộc người lưu lại, liên quan đến Thục Phán - An Dương Vương.