Nhà đầu tư tư nhân 'rộng đường' vào các dự án PPP
Với hàng loạt điểm mới quan trọng trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) sửa đổi, khuôn khổ pháp lý về đối tác công tư đang trở nên linh hoạt và thân thiện hơn với nhà đầu tư. Việt Nam đang cho thấy quyết tâm mạnh mẽ trong thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực này.
Nâng hạn mức tỷ lệ vốn nhà nước trong dự án
Trong những năm qua, khuôn khổ chính sách về PPP của Việt Nam đã liên tục được hoàn thiện và Việt Nam đã sẵn sàng bước vào giai đoạn thúc đẩy triển khai mạnh mẽ các dự án PPP có tính lan tỏa cao.
Cập nhật thông tin quy định về đầu tư theo phương thức đối tác công tư, bà Nguyễn Thị Linh Giang - Chánh Văn phòng PPP, Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Tài chính cho biết, có rất nhiều điểm nổi bật của khung pháp lý về PPP hiện hành.

Lĩnh vực giao thông có tiềm năng rất lớn trong thu hút vốn tư nhân. Ảnh minh họa
Cụ thể, về lĩnh vực đầu tư, trước 15/1/2025, khu biệt lĩnh vực nhằm tập trung nguồn lực để thực hiện các lĩnh vực nhất định; tránh đầu tư tràn lan gây rủi ro ở cấp độ quốc gia. Nhưng sau khi Luật PPP được sửa đổi tại Luật 57/2024/QH15 và Luật 90/2024/QH15 đã mở rộng lĩnh vực, dự án PPP được thực hiện trong các ngành, lĩnh vực đầu tư công nhằm huy động tối đa các nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công.
Về quy mô đầu tư, trước đây, quy mô tối thiểu đối với dự án ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn trong lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo là 100 tỷ đồng và 200 tỷ đồng với các trường hợp còn lại. Hiện nay, Luật PPP đã bỏ hạn mức quy mô tối thiểu đầu tư theo phương thức PPP.
Đồng thời, đơn giản hóa quy trình, thủ tục chuẩn bị đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư; Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền một số thủ tục trong các giai đoạn chuẩn bị đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư để tạo sự chủ động, linh hoạt cho bộ, ngành, địa phương và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai hợp đồng dự án PPP.
Luật mới cũng đã nâng hạn mức tỷ lệ vốn nhà nước trong dự án PPP từ 50-70%, tùy theo từng loại dự án, nhằm tạo động lực thu hút doanh nghiệp tư nhân. Điều này tạo động lực cho doanh nghiệp tư nhân tham gia nhiều hơn vào các dự án PPP về khoa học công nghệ, hay các dự án tại địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn theo danh mục địa bàn theo quy định của pháp luật đầu tư, dự án cần chuyển giao công nghệ cao, công nghệ mới, tiên tiến từ nhà đầu tư mà cần vốn nhà nước để tăng tính khả thi về tài chính.
Đặc biệt, Luật PPP hiện hành đã tạo cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu khi Chính phủ đồng hành với nhà đầu tư, tạo động lực để thực hiện dự án.
Luật PPP quy định, đối với dự án PPP khoa học công nghệ, không yêu cầu nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chia sẻ phần tăng doanh thu trong 3 năm đầu sau thời điểm vận hành, kinh doanh. Trong 3 năm đầu sau vận hành, kinh doanh, cho phép áp dụng mức chia sẻ 100% phần chênh lệch giảm giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế thấp hơn doanh thu trong phương án tài chính.
Cụ thể, Chính phủ cam kết chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án không quá 50% phần hụt thu giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế đạt thấp hơn doanh thu trong phương án tài chinh với tỷ lệ trong khung từ dưới 90% đến dưới 75%. Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án cam kết chia sẻ với Chính phủ phần chênh lệch 50% giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế đạt cao hơn doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP với tỷ lệ trong khung từ trên 110% đến trên 125%.
Bên cạnh đó, Luật PPP đã bổ sung dự án BT, bổ sung trường hợp và cơ chế xử lý trường hợp chấm dứt hợp đồng trước hạn…
Như vậy, có thể thấy, pháp luật về PPP hiện đã rất “rộng đường” cho nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP, tăng tính linh hoạt trong cơ chế tài chính - chia sẻ rủi ro, đồng thời rút gọn quy trình để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.
Nhiều cơ hội cho tư nhân từ danh mục dự án PPP tiềm năng
Chia sẻ về tình hình thực hiện Luật PPP đến nay, bà Nguyễn Thị Linh Giang cho biết, trong năm 2025, có 15 dự án PPP đã phê duyệt và 50 dự án đang chuẩn bị đầu tư, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Cùng với đó, đại diện Cục Đấu thầu, Bộ Tài chính cũng thông tin về danh mục dự án PPP tiềm năng. Trong đó, lĩnh vực giao thông tiếp tục được khẳng định là trụ cột quan trọng, với tiềm năng rất lớn trong thu hút vốn tư nhân cho các dự án đường bộ, sân bay, cảng biển và hạ tầng kết nối.
Phân theo lĩnh vực, có 27 dự án giao thông (hàng không, đường bộ, cảng biển), 17 dự án về xử lý chất thải, 14 dự án công nghệ thông tin, 2 dự án công trình công cộng, 2 dự án cung cấp nước sạch, thoát nước và xử lý nước thải, 3 dự án về y tế.
Trong đó, có một số dự án có quy mô lớn như: Dự án Đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh (với tổng mức đầu tư 120.413 tỷ đồng), dự án Đường kết nối sân bay Gia Bình với Thủ đô Hà Nội (có tổng mức đầu tư 34.336 tỷ đồng), dự án Nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 13 (từ cầu Bình Triệu đến ranh tỉnh Bình Dương)….
Với danh mục chi tiết các dự án PPP tiềm năng và những điểm mới, tích cực trong luật PPP, các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn các dự án phù hợp với năng lực của mình, xây dựng lộ trình triển khai các dự án PPP có tính khả thi cao và lan tỏa trong thực tế.
Chia sẻ về danh mục dự án PPP tiềm năng, ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam nhận định, danh mục PPP của Việt Nam có nhiều cơ hội triển vọng và ADB sẵn sàng phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, các bộ ngành và địa phương để từng bước đưa các dự án này ra thị trường.
Ông cũng nhấn mạnh, Việt Nam đã xây dựng nền tảng tốt cho sự phát triển PPP và với sự hợp tác liên tục, Việt Nam có thể tăng cường triển khai và huy động nhiều hơn nguồn vốn tư nhân cho hạ tầng công nghệ và dịch vụ xã hội.
“ADB cam kết đồng hành, không chỉ với tư cách là đối tác phát triển mà còn là người bạn đồng hành lâu dài trong hành trình hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ trong việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ PPP, củng cố năng lực thể chế và chuẩn bị các dự án thí điểm có thể tạo dựng niềm tin thị trường” - ông Shantanu Chakraborty khẳng định./.




























