Nhà băng 'bơm tiền', doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận

Một báo cáo mới nhất của FiinGroup cho thấy, dù chiếm 95% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, nhưng chỉ 9,3% doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tiếp cận được vốn vay tín dụng.

Báo cáo của FiinGroup nhận định, hạn chế tiếp cận vốn, đồng nghĩa với việc nhiều DNNVV bị bó hẹp khả năng mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, hay nâng cao năng lực cạnh tranh.

DNNVV chưa “chạm” được tín dụng

DNNVV đóng góp vào kim ngạch xuất nhập khẩu cũng rất hạn chế, chỉ chiếm 6,7% tổng kim ngạch xuất khẩu và 9% tổng kim ngạch nhập khẩu. Phân tích theo mô hình chấm điểm rủi ro của FiinGroup cho thấy một sự phân tầng rõ rệt: trong khi khoảng 60% DN lớn có mức rủi ro rất thấp, thì có đến hơn 70% DNNVV lại nằm trong nhóm có rủi ro từ trung bình đến cao. Do vậy một trong những thách thức lớn nhất của DNNVV chính là khả năng tiếp cận vốn vay.

Phân tích sâu hơn cho thấy, các ngân hàng và tổ chức tài chính có xu hướng chọn lọc khách hàng có thời gian hoạt động đủ lâu. Trong khi đó có khoảng 40% DN hoạt động trên 5 năm, có mức rủi ro từ trung bình đến thấp nhưng chưa tiếp cận được vốn vay. Như vậy dù tín dụng có tăng, nhưng dòng tín dụng không được phân bổ đồng đều giữa các ngành và các loại hình DN.

Thực tế cho thấy, phần lớn vốn tín dụng thường chảy vào các DN lớn, các tập đoàn có uy tín hoặc các dự án bất động sản, trong khi các DNNVV vốn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế lại ít tiếp cận được. Bên cạnh đó, các ngân hàng thường ưu tiên cho vay những khách hàng có tài sản thế chấp giá trị cao và hồ sơ tín dụng tốt, khiến các DNNVV thiếu tài sản đảm bảo rơi vào thế bất lợi.

Về lãi suất, mặc dù lãi suất được điều chỉnh giảm nhưng chỉ áp dụng ở một số lĩnh vực ưu tiên, thời điểm. Trong khi đó, các điều kiện vay vốn của ngân hàng vẫn rất ngặt nghèo. Như DN cần phải chứng minh được khả năng tài chính vững mạnh, có kế hoạch kinh doanh rõ ràng và lợi nhuận ổn định, có tài sản bảo đảm.

Thế nhưng, hiện nay các DN nhỏ và siêu nhỏ không thể đáp ứng được những tiêu chuẩn như vậy. Điều này dẫn đến việc dù tín dụng tăng trưởng, nhưng không phải DN nào cũng đủ điều kiện để “chạm tay” vào nguồn vốn.

Rủi ro khi tín dụng không “đúng dòng”

Trên thực tế, nguyên nhân khiến nhóm các DNNVV khó “chạm tay” được vào vốn vay tín dụng khá đa dạng. Một phần xuất phát từ rào cản thông tin: nhiều DNNVV chưa có báo cáo tài chính chuẩn mực hoặc thiếu minh bạch trong quản trị, khiến ngân hàng phải “cộng thêm” hệ số rủi ro khi định giá khoản vay.

Bên cạnh đó, chi phí thẩm định và quản lý khoản vay nhỏ lẻ cao hơn so với quy mô vốn cấp ra, khiến các ngân hàng ưu tiên các hợp đồng lớn. Ngoài ra, cơ chế bảo lãnh tín dụng và chia sẻ rủi ro tại Việt Nam chưa đủ mạnh, để khuyến khích ngân hàng mở rộng cho vay đối với nhóm DNNVV.

Trước những “rào cản” này, một số chuyên gia đề xuất áp dụng các mô hình chấm điểm rủi ro dựa trên dữ liệu toàn diện, không chỉ dữ liệu tài chính truyền thống mà còn dữ liệu hành vi thanh toán, tín hiệu từ thị trường và thông tin ngành. Cách tiếp cận này giúp nhận diện chính xác nhóm DNNVV “an toàn” để mở hạn mức, đồng thời giảm thiểu chi phí thẩm định.

Theo ông Phạm Xuân Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam, số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố cho thấy tăng trưởng tín dụng trong nửa đầu năm nay đạt khoảng 10%, gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Nếu cả năm 2025 tăng trưởng tín dụng đạt 20%, thì tỷ lệ này chỉ cao gấp hơn hai lần so với mục tiêu tăng trưởng GDP 8,5% mà Chính phủ đề ra.

Trong quá khứ, những giai đoạn được coi là tăng trưởng tín dụng “nóng” thường gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP. So với tiêu chí đó, con số hiện tại vẫn nằm trong ngưỡng kiểm soát.

Hiện nay, NHNN vẫn áp dụng công cụ kiểm soát rủi ro về an toàn vốn theo chuẩn Basel II, và chính thức ban hành Thông tư 14 thay thế Thông tư 41, đưa ra các yêu cầu riêng biệt đối với vốn lõi cấp 1, cùng với bộ đệm an toàn vốn.

Đây là cơ sở giúp ngăn chặn câu chuyện cho vay quá mức trong khi thiếu hụt nguồn vốn huy động. Ngoài ra, thực tế 80% nguồn vốn tín dụng chủ yếu đến từ thị trường 1 (tổ chức và dân cư), do đó nếu không có sự tăng trưởng thực chất về huy động vốn, các ngân hàng cũng khó có thể đẩy mạnh cho vay quá mức.

Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Hòe cũng cảnh báo về những rủi ro khi dòng vốn tín dụng không được kiểm soát chặt chẽ và “nắn dòng” đúng hướng. Tăng trưởng tín dụng cần phải có sự rà soát lại thật kỹ lưỡng. Nếu như phân bổ tín dụng chảy quá nhiều vào bất động sản hoặc chứng khoán, thì nó có thể tạo ra “bong bóng” tài sản và có thể dẫn đến rủi ro rất lớn cho cả hệ thống tài chính sau này.

"Điều này cũng dễ hiểu, khi nền tảng sản xuất kinh doanh của các DN gặp rất nhiều khó khăn, nên cảm thấy khả năng kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận không lớn, họ sẽ chuyển dòng tiền chảy sang lĩnh vực khác. Bất động sản và chứng khoán hiện nay đang tăng nhiệt rất cao, và đương nhiên các nhà đầu tư và doanh nghiệp đổ xô vào đấy. Đây là điều đáng lo” - ông Phạm Xuân Hòe nhận xét.

Theo ông Phạm Xuân Hòe, bên cạnh việc đẩy mạnh tín dụng ra thị trường cần đồng bộ chính sách về tài khóa, thuế… hoặc công cụ của NHNN. Đơn cử, có thể nâng cao hệ số rủi ro tín dụng đối với các lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán; kiểm soát chặt chẽ danh mục cho vay của các ngân hàng.

Đơn cử như giữa DN xây dựng và bất động sản, DN xây dựng được kế toán viên hạch toán là xây dựng nhưng thực ra lại là bất động sản và không hạch toán vào bất động sản, dẫn đến số liệu về tín dụng cũng như định hướng dòng vốn sẽ không chính xác.

Trong bối cảnh Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định vai trò then chốt của khu vực kinh tế tư nhân và DNNVV là lực lượng nòng cốt, thì dòng vốn không chỉ là vấn đề của DN mà còn là thách thức về hiệu quả phân bổ nguồn lực quốc gia.

Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/nha-bang-bom-tien-doanh-nghiep-van-kho-tiep-can-post125207.html
Zalo