Nguyễn Trác, nếu ngày mai em đọc thơ tôi
Bên cửa sổ là biển gồm 75 bài thơ, vẽ nên 'chân dung tâm hồn' Nguyễn Trác là nhà thơ giàu hoài niệm, lắm suy tư.

Nhà thơ Nguyễn Trác.
1. Mở tập thơ Bên cửa sổ là biển, NXB Hội Nhà văn năm 2024 của nhà thơ Nguyễn Trác, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tôi dừng lại hồi lâu với bài thơ Bên cửa sổ. “Tôi đứng bên cửa sổ / Vẫy tay từ biệt / Những câu thơ ra với cuộc đời/.../ Những câu thơ mang số phận tôi”. Bài thơ xác tín quan niệm sáng tác, hơn thế là quan niệm nhân sinh.
“Tôi tiễn những câu thơ / Như hạ thủy những con thuyền ra sóng / Câu thơ vừa viết xong / Là mới xong một nửa”, và ông cho rằng: “Nửa sau tùy đón nhận trùng khơi”. Con “thuyền thơ” ấy tùy đón nhận của “trùng dương”. Đây là ẩn dụ của người yêu thơ, của đại chúng.
Nhà thơ, nói rộng ra là người sáng tác vắt tâm hồn mình cho tác phẩm, nhưng sự đón nhận, thẩm định nó, bài thơ tồn tại hay không thuộc về bạn đọc. Tác phẩm phải đánh thức được tâm hồn người đọc, hay nói cách khác tạo nên dư ba thì công việc sáng tác mới thành công.
Bên cửa sổ là biển gồm 75 bài thơ, vẽ nên “chân dung tâm hồn” Nguyễn Trác là nhà thơ giàu hoài niệm, lắm suy tư. Không gian và thời gian nghệ thuật có đủ bốn mùa trong tự nhiên lẫn nhân sinh...; có hiện thực, có hư ảo, có suy tư. Thơ ông là đời sống được khúc xạ, trú ngụ trong tâm hồn.
“Viết được câu thơ tự nhiên thật khó / Sống hồn nhiên trung thực khó hơn nhiều / Đời quỷ quái mới cho vài chiêu vặt / Ông nhà thơ đã thấy liêu xiêu”, (Nhân nghĩ về thơ I). Trong "Bên cửa sổ là biển", có đến ba bài Nguyễn Trác nghĩ về thơ, đánh số I, II, III.
Thế nào là thơ, hẳn nhiên có nhiều định nghĩa, nhiều thể loại và tồn tại cùng ngôn ngữ, tâm hồn con người. Theo Nguyễn Trác, “Chưa có định nghĩa nào triệt để / Không quy luật chung cho tất cả mọi người / Chỉ ý tưởng bất ngời / Như bất ngờ em đã trao tôi”, (Nhân nghĩ về thơ III).
Có trách nhiệm với thơ, với cuộc đời, chính vì thế Nguyễn Trác không ngừng sáng tạo ở tuổi đáng ra được an nhiên để “ngắm nghía” gia tài. Với Nguyễn Trác “Tâm hồn là câu chuyện không hồi kết”, như tên một bài thơ của ông.
“Có câu thơ bỏng khát / Sinh ra trên bến không chồng / Có câu thơ yên ngựa / Mênh mang trời đất đàn ông / Bí ẩn và trong sáng / Những câu thơ trăng vàng / Không mang thiên chức nào /Ngoài thiên chức ngân vang”, (Thiên chức).
Suy cho cùng, thơ ca ở thời đại nào cũng phải thực hiện thiên chức làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. Bài thơ Thiên chức của Nguyễn Trác vang lên như một “tuyên ngôn”.

Bìa tập thơ Bên cửa sổ là biển.
2. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nói, thơ ca ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. Sống trong một thời đại đa biến, nhiều biến động bất ngờ; trong một xã hội vui buồn trộn lẫn, tâm hồn Nguyễn Trác luôn rung lên những suy tư.
...
Ta ngơ ngác tìm nơi trú ngụ
Một góc riêng trong thế giới này
Một thế giới càng ngày càng phẳng
Càng mất dần bí ẩn mê say
(Thật kỳ cục thời anh đang sống)
Đọc bài thơ này của Nguyễn Trác, người yêu thơ hẳn nhớ bài thơ “Những điều bí ẩn” của nhà thơ Nga E.Evtushenko; ông thảng thốt: “Bí ẩn rất đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn, / Dù ít dù nhiều, xin trả lại cho ta...”. Sẽ ra sao nếu con người ngày càng bị trộn lẫn giấc mơ; sẽ ra sao, thời trí tuệ thông minh AI đã tham gia vào bình luận văn học, sáng tác thơ và âm nhạc? Hẳn nhiên AI, dù tích hợp đến đâu cũng không thể thay thế tâm hồn, nói thay đau khổ và hy vọng của con người.
"Bên cửa sổ là biển" chủ yếu là thơ tự do, nhiều bài thơ ngắn, nhất là phần 2 (tập thơ được tác giả bố cục thành 5 phần) cả 21 bài thơ đều tứ tuyệt, nhiểu ẩn ngữ, ẩn dụ. “Chúng ta sống vì những điều thiết thực / Lại cạnh bao điều tưởng rất vu vơ / Nhưng đôi lúc vu vơ / Bỗng mở ra cánh cửa không ngờ”, (Vu vơ).
Ở tuổi bát thập nhưng tâm hồn nhà thơ còn biết bao ngạc nhiên. Khi người ta còn ngạc nhiên thì còn làm thơ. Âu đó cũng là sự khác biệt, thành tố của tâm hồn thi sỹ.
“Tôi học loài ong / Bay đi tìm mật / Mang trên đôi cánh / Giấc mơ bao người”, (Cuộc đời tôi). Nguyễn Trác tự họa, nhưng đó là một hành trình vật vã cùng cô đơn, “Bao buồn vui người / Thành ghềnh thác trong tôi”. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong.
Nguyễn Trác được chuyên môn là viết thành công ở cả mảng thơ người lớn và thơ thiếu nhi. Ở thơ thiếu nhi, ông gây ấn tượng với tập Khu vườn tuổi thơ, trong ấy có bài Những đám mây sẽ kể được đưa vào Tiếng Việt 2, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo.
3. Khi biết nhà thơ Nguyễn Trác, tôi nhận ra ở ông sự nhẹ nhàng, tinh tế. Hóa ra ông là thi sĩ đất Hà Thành, nơi có “tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”. Theo nhà thơ, tuy họ nội gốc ở làng Nôm, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra và lớn lên ở phố cổ Gia Ngư, quận Hoàn Kiếm vào năm 1945. Đó là Ất Dậu, dân tộc bước vào một thời đại mới, “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, (thơ Nguyễn Đình Thi)
Tháng 10/1972, sau khi tốt nghiệp Sư phạm, Nguyễn Trác vào chiến trường khu V, công tác tại Ban Giáo dục đặc khu Quảng Đà. Đó là chiến trường khốc liệt, đầy máu và hoa, con người được trui rèn, chung thủy với lý tưởng. Gắn bó với vùng đất này, nên trong giải thưởng văn học của Nguyễn Trác có Giải thưởng 10 năm văn học Quảng Nam Đà Nẵng 1975 – 1985.
Đất nước thống nhất, Nguyễn Trác có 8 năm công tác trên mảnh đất này, trước khi ra Hà Nội học khóa II Trường Viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp về công tác tại các cơ quan thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, cho đến khi nghỉ hưu.
Nguyễn Trác vẫn chung thủy với nàng thơ, trăn trở với cuộc đời: “Cây bút anh vẫn để trên bàn / Ngôi nhà xưa vẫn bao trăn trở / Đi trong cõi người như một dòng sông”, (Người tặng hoa đã khuất). Bài thơ Người tặng hoa đã khuất, Nguyễn Trác đề tặng Mai Phương, nhà thơ gốc Phú Yên, “sống chết” với vùng mỏ Quảng Ninh, nhưng đúng với Nguyễn Trác, người luôn tự ngẫm “Ông chưa phải là nhà thơ đích thực / Dù cặm cụi sớm khuya”, (Ông và cháu).
Nguyễn Trác là nhà thơ nhẹ nhàng, tướng mạo của một giáo chức mô phạm. Dễ hiểu vì sao, dẫu là thế sự nhưng thơ Nguyễn Trác cảm xúc tinh tế. Thơ ông luôn rung rức, dẫu chỉ là khi lần giở thư tịch: “Hãy sống như trăng lên / Đắng cay là thông điệp / Chua chát là ngọn nến / Soi trang Kiều ta đọc đêm đêm”, (Đọc lại Kiều).
Nguyễn Trác chiêm nghiệm thế sự nhưng ở bình diện tình cảm, thơ ông cứ tự nhiên, thế nhưng tô đậm thêm những đạo lý hiển nhiên ở đời. Nguyễn Trác luôn trân trọng cuộc sống, dẫu chỉ là hoài niệm về những mái ngói nâu Hà Nội, những đớn đau mất còn trong thời thế. Thơ Nguyễn Trác vì thế, giản dị nhưng có tầng cảm xúc mỹ triết. “Anh như cơn mưa chiều trên đá / Hạt lành văng ra / Hạt vỡ ở lại / Đời cần bao nhiêu lành vỡ đi qua”, (Mưa trên đất).
Cuộc đời vốn sắc sắc không không, chỉ những giá trị văn hóa mới trường tồn. Các thang giá trị trong đời sống đã thay đổi, đến thơ còn có tân hình thức ra đời bên cạnh lục bát. Dù đa màu, đa sắc, đa biến, nhưng tự nhiên luôn trườn về phía đa dạng để vĩnh cửu; với xã hội giá trị hòa bình là khao khát. Thơ Nguyễn Trác luôn hướng đến những giá trị thuộc về vẻ đẹp, ban sức.
Ở tuổi bát thập, Nguyễn Trác nhận ra quy luật của hư vô. “Đời trùm lên ta một chiếc khăn buồn / Sách vở nói thế gian chưa hoàn thiện / Anh bảo nhân sinh phép cộng những vô thường”, (Không phải ai cũng tới đích vẻ vang).
Ở tuổi ấy, Nguyễn Trác buông bỏ, tâm hồn an nhiên, thánh thiện, nhưng không hề vơi khao khát dâng hiến: “Những cơn mưa cuối chiều ám ảnh / Vừa ấm nóng cái hôn thành quá khứ mất rồi / Thời gian vô hình / Nhưng hữu hình ấm nóng vẫn trên môi”, (Đêm cuối năm). Thơ Nguyễn Trác cứ thế, giàu triết cảm, đại ngộ triệt để.