Người thầy - ngọn lửa không bao giờ tắt: Nghề chọn người
Không ít thầy cô từng trải qua nhiều công việc khác trước khi tìm thấy chính mình trên bục giảng.

Cô giáo Mai Lệ Hiên - Trường Mầm non Ước Mơ (Hà Nội). Ảnh: NVCC
Như một cơ duyên, họ gắn bó với nghề giáo, mỗi ngày “truyền lửa” cho học trò theo cách riêng. Chính tình yêu nghề đã giúp họ vượt qua khó khăn, giữ vững niềm tin và gắn bó trọn đời với sự nghiệp trồng người - một nghề, cũng là một nghiệp.
Như tình yêu chưa bao giờ cũ
Giải thích lý do chọn con đường giảng dạy dù từng có 3 năm làm việc tại doanh nghiệp với mức lương cao gấp 20 lần thu nhập ở trường đại học, PGS.TS Võ Trung Hùng - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng, cho biết: “Tôi muốn theo hướng nghiên cứu chuyên sâu, và môi trường học thuật là phù hợp nhất”.
Cống hiến hết mình cho “nghiệp” đã chọn, vừa giảng dạy vừa tự học và nghiên cứu, Võ Trung Hùng trở thành tiến sĩ ở tuổi 36 và được phong Phó Giáo sư khi 39 tuổi, với nhiều công trình khoa học có tính ứng dụng cao, tích lũy theo năm tháng.
Năm 1991, tốt nghiệp cử nhân Toán, Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế, anh Hùng bắt đầu sự nghiệp tại Trung tâm phần mềm Đà Nẵng. “Thời điểm đó, công nghệ thông tin ở Việt Nam còn rất mới, dân tin học hầu hết xuất thân từ Toán. Toán học là chiếc cầu nối đưa mình đến công nghệ thông tin.
Để đảm đương công việc, tôi phải tự tìm tài liệu nghiên cứu. Vừa học vừa triển khai các dự án thực tế, tay nghề được nâng cao nhanh chóng. Trong công nghệ thông tin, muốn tiến bộ thì con đường duy nhất là triển khai các đề tài thực tế”, thầy Hùng chia sẻ.
Sau 3 năm tích lũy kinh nghiệm, năm 1994, Võ Trung Hùng chuyển hướng sang giảng dạy, trở thành một trong bảy giảng viên chính của Trung tâm Tin học, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng (nay là Khoa Công nghệ Thông tin).
“Lúc đó, điều kiện dạy học còn thiếu thốn, trang thiết bị hạn chế, ngành học lại mới. 29 sinh viên khóa đầu tiên hầu như chưa từng sử dụng máy vi tính, nên cả thầy và trò vừa dạy vừa học, vừa khắc phục khó khăn để nghiên cứu và khám phá”, thầy Hùng nhớ lại.
Chuyển sang môi trường học thuật, thầy Hùng cho biết bản thân không mất nhiều thời gian để thích nghi, chỉ cần hệ thống hóa lại kiến thức để sinh viên được trang bị nền tảng vững chắc.
Giảng viên cần có kiến thức lý thuyết sâu rộng, kết hợp với thực tiễn để sinh viên dễ hiểu và nhanh chóng thích ứng với môi trường làm việc sau này. Thầy luôn yêu cầu sinh viên đọc tài liệu trước khi lên lớp, để giờ học chủ yếu là trao đổi, thảo luận nhóm, giải quyết các bài toán thực tiễn và giải đáp thắc mắc.
“Với cách làm này, sinh viên vừa rèn luyện khả năng tự học, làm việc nhóm, nâng cao trình độ ngoại ngữ do phải tự nghiên cứu tài liệu, đặc biệt là khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Phương pháp này giúp các em khắc sâu kiến thức tốt hơn nhiều so với cách giảng viên giảng - sinh viên nghe.
Để đạt hiệu quả, sinh viên luôn nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ giảng viên. Chính vì vậy, tôi khuyến khích các em gửi thắc mắc qua email và đều được giải đáp nhanh chóng” thầy Hùng chia sẻ.
Ngoài cung cấp kiến thức, thông qua kỷ luật giờ học và các bài tập, PGS.TS Võ Trung Hùng còn rèn cho sinh viên tính kiên trì, tư duy logic và kỷ luật lao động - những tố chất quan trọng đối với các kỹ sư công nghệ thông tin tương lai. Dù đảm nhiệm công tác quản lý, các công trình nghiên cứu khoa học của thầy vẫn nối tiếp nhau.
“Nghiên cứu nhiều mới có kinh nghiệm giảng dạy. Tôi luôn yêu cầu sinh viên tự học, bởi đặc thù ngành công nghệ thông tin là công nghệ thay đổi liên tục; chỉ cần hai năm không nâng cao kiến thức, bạn sẽ lạc hậu. Nếu sinh viên giỏi mà tôi không cập nhật kiến thức, sẽ không thể theo kịp nghề”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật cho biết.

PGS.TS Võ Trung Hùng (bìa phải) phát biểu trong Hội thảo chuyên đề Kỹ thuật Cơ khí ngành Hàng không vũ trụ giữa Công ty UAC và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật - Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NVCC
Ấp ủ than hồng thành ngọn lửa
Vào nghề từ năm 1983, thời điểm nhiều giáo viên khó trụ lại với nghề vì điều kiện khó khăn, thầy Lê Cư (TP Đà Nẵng), giảng dạy môn Vật lý, vẫn kiên trì bám lớp, dù phải “dùng nghề tay trái” để nuôi nghề dạy học.
Năm 1988, trong đợt tinh giản biên chế, khi đang công tác tại Trường THPT Hòa Vang (TP Đà Nẵng), thầy Cư dù không thuộc diện tinh giản vẫn tình nguyện xin nghỉ chế độ, với suy nghĩ: còn nghề điện, điện tử trong tay, ra ngoài vẫn có thể xoay xở. Thầy vừa thi công phần điện cho các công trình xây dựng, vừa dạy nghề tại các trung tâm đào tạo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Được đứng lớp một lần nữa, nỗi nhớ nghề nguôi ngoai phần nào, nhưng tận sâu trong lòng, thầy vẫn hướng về không khí của trường phổ thông: “Mình được đào tạo sư phạm bài bản mà không tiếp tục nghề dạy học thì tiếc quá. Ở giai đoạn khó khăn chung, mình đã hy sinh một phần nên khi ổn định, quyết định trở lại với nghề là tất yếu”, thầy Cư nhớ lại.
Năm 2000, khi gần 40 tuổi, thầy tham gia kỳ thi viên chức để quay trở lại ngành. “Phải vượt qua nhiều thứ, vì công việc bên ngoài đang ổn định, thu nhập cao, trong khi quay lại giảng dạy đồng nghĩa bắt đầu từ đầu”, thầy chia sẻ.
Sau khi được phân công dạy tại Trường THPT Hoàng Hoa Thám (TP Đà Nẵng), thầy nhiều năm liền là chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, nhận nhiều bằng khen nhờ các sáng kiến và cải tiến trong dạy học. Những công trình này được thầy công bố rộng rãi để đồng nghiệp phát triển thêm, như cách trả lại món nợ ân tình với niềm vui mà nghề mang lại.
Trường hợp khác là cô Mai Lệ Hiên - Trường Mầm non Ước Mơ (Vĩnh Hưng, Hà Nội), từng gắn bó 2 năm với công việc kiểm toán tại một công ty tư nhân. Dù tốt nghiệp ngành học này, song cô nhận ra bản thân không yêu công việc chuyên môn. “Tôi nhiều lần đấu tranh với bản thân: đây là ngành học của mình, không thể bỏ phí. Nhưng tôi vẫn cảm thấy không phù hợp, và sau một thời gian suy nghĩ, tôi quyết định nghỉ việc kiểm toán”, cô Hiên trải lòng.
Để thử sức với nghề giáo, cô Hiên xin học và tham gia dạy phụ việc tại trường mầm non, trải nghiệm công việc thực tế. “Thời gian đầu rất vất vả, phải học lại từ đầu, nhưng tôi thấy hứng thú và được tiếp thêm động lực”, cô kể.
Qua nhiều năm nỗ lực, năm 2018, cô học trung cấp ngành Sư phạm Mầm non, sau đó liên thông đại học hệ vừa học vừa làm tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Giờ đây, mỗi ngày đến trường, được gặp gỡ học trò, cô cảm thấy tự hào vì đã kiên trì theo đuổi nghề nghiệp yêu thích, không bỏ cuộc giữa chặng đường khó khăn.

Thạc sĩ, bác sĩ Phạm Quang Khải nhận hoa chúc mừng từ học trò, đồng nghiệp. Ảnh: Ngô Chuyên
Để sinh viên “neo” lại với nghề
Tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, ThS.BS Phạm Quang Khải được mời về giảng dạy tại bộ môn Ngoại, Học viện Y Dược học Cổ truyền Việt Nam, đồng thời công tác tại khoa Phẫu thuật Thận - Tiết niệu và Nam học, Bệnh viện E, Hà Nội.
Hơn 5 năm gắn bó với giảng dạy và công tác y tế, nhưng mỗi dịp tháng 11, thầy Khải vẫn bồi hồi, xúc động như những ngày đầu tiên bước lên bục giảng. Thầy chia sẻ: “Những năm tại Trường Đại học Y Hà Nội, tôi chỉ mong học tốt chuyên ngành, ra trường cống hiến với nghề. Chưa bao giờ dám nghĩ sẽ đứng trên bục giảng, gắn bó với phấn trắng, truyền kiến thức cho các bác sĩ tương lai”.
Cơ duyên đến với nghề giáo khiến thầy Khải luôn dành tối đa thời gian nghiên cứu bài giảng, tìm tòi kiến thức mới và cách tiếp cận đơn giản nhất để tạo động lực cho sinh viên. Dù là tiết giảng lý thuyết hay hướng dẫn lâm sàng tại bệnh viện, thầy đều nỗ lực truyền đạt kiến thức dễ hiểu, thực tiễn và gần gũi.
Thầy Khải nhấn mạnh: “Tôi luôn nói với sinh viên rằng những ai chọn ngành Y phải dũng cảm, rộng lượng và vị tha, biết cảm thông để thấu hiểu nỗi khó khăn của bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân đến với mình là một niềm tin, một hy vọng. Vì vậy, các bạn phải luôn tạo cho họ cảm giác an tâm”.
Nhờ tinh thần đó, những giờ giảng của thầy Khải được sinh viên đón nhận nồng nhiệt. Ngoài thời gian trên lớp, anh tận dụng các buổi học lâm sàng tại bệnh viện để khuyến khích sinh viên gần gũi bệnh nhân, từ đó lắng nghe, thấu hiểu tâm lý và hoàn cảnh của người bệnh - kỹ năng quan trọng không thể thiếu với một bác sĩ tương lai.
Thầy Khải chia sẻ: “Danh xưng bác sĩ đã rất trân quý, nhưng khi nghe sinh viên gọi ‘thầy ơi’, tôi thấy thiêng liêng vô cùng. May mắn được gắn bó với nghề giáo, được chia sẻ kiến thức mình học với sinh viên, niềm tự hào lại càng lớn hơn”.
Nhớ về ngày 20/11 đầu tiên khi mới bước vào nghề, thầy chia sẻ: hôm đó vừa kết thúc một ca mổ gần đêm, mệt mỏi chuẩn bị ra về thì một nhóm sinh viên gọi lại. Lúc đầu tôi nghĩ có ca cấp cứu hay sinh viên hỏi bài, nhưng không phải. Các em tặng tôi một bó hoa. Tôi bất ngờ vô cùng, không ngờ sinh viên đứng chờ mình.
Với mỗi người cầm phấn, đứng trên bục giảng, điều mong mỏi lớn nhất là học trò trưởng thành, theo đuổi nghề đã chọn. Trong 5 năm giảng dạy, thầy Khải có nhiều kỷ niệm với sinh viên, nhưng ấn tượng nhất là câu chuyện về một nam sinh năm 4 đi thực hành tại bệnh viện. Sinh viên này chăm chỉ, cầu thị, hoàn thành bài tập tốt nhưng ít quan sát thực tế, dẫn đến kết quả lâm sàng kém. Thầy Khải nhận thấy năng lực của em và hiểu sai lầm đang mắc phải.
Thầy gọi riêng nam sinh này ra trao đổi, phân tích kỹ các lý do khiến kết quả chưa cao. Trong những buổi thăm khám bệnh nhân, thầy giao em đi cùng bác sĩ, nhân viên y tế để quan sát, tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Nhờ đó, em nhận ra trong ngành Y, lý thuyết và thực hành phải song hành, không thể thiếu một trong hai.
Thầy Khải còn khuyến khích nam sinh hỗ trợ bạn học chưa nắm vững lý thuyết, để cả nhóm cùng tiến bộ. Đây cũng là bài học về tinh thần đoàn kết, quan tâm lẫn nhau - phẩm chất đặc biệt quan trọng trong môi trường y tế, nơi sự theo dõi và chăm sóc bệnh nhân phải vô cùng tỉ mỉ.
Làm thầy giáo, ai cũng mong sinh viên đạt kết quả tốt. Với tôi - vừa là thầy, vừa là bác sĩ - mong muốn còn lớn hơn: sinh viên ngành Y không chỉ học giỏi mà còn biết vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức vào thực tiễn công tác sau này. Trách nhiệm đặt trên vai các em rất lớn, và tôi may mắn được cùng các em sẻ chia trọng trách ấy. - Bác sĩ Phạm Quang Khải.
































