Người chiến sĩ trên hai mặt trận

Căn nhà gỗ của TS. Đỗ Văn Dũng nằm trên đường Thống Nhất (Phường 16, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh) chính là địa chỉ đỏ của lực lượng biệt động thành trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Dù đã gần 70 năm, nhưng chủ nhân luôn giữ được sự đơn giản và cổ xưa vốn có. Nơi này, mỗi ngày ông Dũng vẫn sống và lưu giữ ký ức về những năm tháng gia đình ông tham gia biệt động Sài Gòn.

Có một thời biệt động Sài Gòn

Với TS. Đỗ Văn Dũng, hạnh phúc chỉ đơn giản là đồng đội không bao giờ quên nhau, lịch sử chắc chắn cũng sẽ không bao giờ quên, có một thời biệt động thành anh hùng như thế. Lực lượng đặc biệt này là sản phẩm độc đáo từ trí tuệ và tinh thần của cuộc chiến tranh nhân dân vô cùng anh dũng. Sau 50 năm giải phóng miền Nam, những biệt động Sài Gòn lừng lẫy một thời đều đã ở tuổi xưa nay hiếm.

Những người còn lại trong đơn vị K41 (lực lượng vũ trang thuộc Liên Quận ủy 4, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định), vẫn cuối tháng gặp nhau, ghi chép lại những ký ức một thời tranh đấu, cùng nhau ôn lại năm tháng hoạt động kiên cường, mưu trí vô song với những chiến công huyền thoại, nhớ về đồng đội đã ngã xuống, tìm mọi cách an ủi những đồng bào, đồng chí đã bị tù đày, thương tật, tìm cách truyền lại cho thế hệ mai sau...

TS. Đỗ Văn Dũng (thứ hai, từ phải qua) trong lần tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm việc với phái đoàn Nhật Bản, năm 1995.

TS. Đỗ Văn Dũng (thứ hai, từ phải qua) trong lần tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm việc với phái đoàn Nhật Bản, năm 1995.

Mở đầu câu chuyện, TS. Đỗ Văn Dũng dành lời gan ruột kể về những hoạt động của ba má mình, một cặp vợ chồng giàu lòng yêu nước, cam chịu mọi gian khổ, hy sinh cống hiến cả tài sản và xương máu cho cách mạng từ những “9 năm kháng chiến chống Pháp” và những năm đầu tiên của cuộc chiến tranh chống Mỹ.

“Năm 1940, sau khi học ở Huế về, ba tôi Đỗ Văn Luyến được bổ nhiệm làm Trưởng ga Kỳ Lam (là ga kế tiếp ga Đà Nẵng, thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Tại đây, ba kết duyên với má tôi là Đỗ Thị Nga, người làng Kỳ Lam. Hai vợ chồng cùng tham gia kháng chiến chống Pháp. Má tôi hoạt động trong Phong trào Phụ nữ Cứu quốc trong một tổ Tam Tam “sống cùng sống, chết cùng chết, không bao giờ rời nhau”; còn ba được cử làm Chủ tịch Việt Minh Tổng Đa Hòa, lãnh đạo quần chúng nhân dân cầm gậy tầm vông, giáo mác đấu tranh với thực dân Pháp và làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở khu vực Điện Bàn. Ông nội tôi, là một trung nông, cùng con trai và con dâu đã cống hiến tất cả tài sản cho cách mạng”, TS. Đỗ Văn Dũng kể về gia đình mình.

Năm 1954, sau Hiệp định Geneve, được giao nhiệm vụ tổ chức đi tập kết từ cảng Quy Nhơn, ông Luyến đã chờ đi chuyến cuối, nhưng chuyến tàu Ba Lan đó đã không đến. Ông trở về quê thì bị địch bắt và giam ở nhà lao Vĩnh Điện (Quảng Nam). Vợ ông ở ngoài một nách ôm hai người con còn nhỏ: “Khi ấy, căn nhà của ba má còn 4 cái vách rách nát, tài sản không có gì cả, nghèo đến tận cùng, phải nhờ bà con, hàng xóm giúp má dựng một cái chòi nhỏ, má mượn một ít tiền làm vốn, mở quán bán hàng xén trước chợ Bất Nhị, tích cóp từng đồng nuôi con và thăm chồng đang ở trong nhà lao”, ông Dũng kể, đôi mắt ngấn lệ khi nhớ về người mẹ tảo tần, yêu chồng, thương con hết mực.

Ở tuổi 73, TS. Đỗ Văn Dũng vẫn tích cực tham gia các hoạt động về nguồn, hỗ trợ, giúp đỡ đồng đội gặp khó khăn trong mạng lưới biệt động Sài Gòn năm xưa.

Ở tuổi 73, TS. Đỗ Văn Dũng vẫn tích cực tham gia các hoạt động về nguồn, hỗ trợ, giúp đỡ đồng đội gặp khó khăn trong mạng lưới biệt động Sài Gòn năm xưa.

Năm 1956, ông Đỗ Văn Luyến vượt ngục thành công, vào Bình Dương tiếp tục hoạt động cách mạng. Đến năm 1958, khi đã ổn định cuộc sống, ông gọi vợ dẫn 2 người con vào theo. Một năm sau, ông Luyến mua được căn nhà ở ngã năm Chuồng Chó (quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh ngày nay), gần hàng rào sân bay Tân Sơn Nhất, ông đã thực hiện nhiệm vụ bí mật nào đó trong vai thầy giáo, rồi thợ dệt. Khi sân bay Tân Sơn Nhất mở rộng, gia đình ông Luyến phải dọn nhà lên xã Thông Tây Hội (nay là phường 16, quận Gò Vấp) mở xưởng dệt lấy tên Nam Thành. Ông một mình ôm 2 máy dệt và 2 máy suốt cung cấp ống chỉ cho các xưởng dệt gần nhà rồi trở thành ông chủ xưởng dệt, trở thành đại diện cho giới tiểu thương trong Phòng Thương mại và Công nghiệp miền Nam. Quan hệ với giới tư bản, ông thành công trong việc tạo cơ hội để giới tư bản đóng góp cho cách mạng, vợ ông nuôi cán bộ và cung cấp vật tư, thuốc men vào chiến khu, các con ông làm giao liên cho lực lượng biệt động thành. Từ đây, ông đưa cả gia đình vào con đường hoạt động cách mạng.

Đỗ Văn Dũng lúc này là chàng trai tuổi thiếu niên, ít nhiều hiểu được việc làm của ba má và các công nhân thợ dệt và ông hiểu được rằng, đây là việc hệ trọng, liên quan đến vận mệnh của một tổ chức và tính mạng con người. Ông Dũng được các cô chú giao nhiệm vụ mang tài liệu, vật tư hoặc đưa các cô, chú đến các địa điểm trong thành phố. Thấy cậu bé nhỏ tuổi mà nhanh nhẹn, tháo vát, lại hiểu được thời thế, tổ chức biệt động Sài Gòn đã giao Đỗ Văn Dũng làm giao liên cho đồng chí Năm Minh (Trần Đức Phú, Đội trưởng Biệt động Thanh niên - Sinh viên - Học sinh thuộc Lực lượng vũ trang Khu Đoàn Sài Gòn - Gia Định). Từ đây, biệt động nhí Đỗ Văn Dũng là kênh kết nối giữa đồng chí Năm Minh với đầu mối của các đơn vị biệt động thành khác.

Năm 1965, khi mới 13 tuổi, Đỗ Văn Dũng trở thành “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới biệt động Sài Gòn hoạt động bí mật của đồng chí Tư Thệ (Võ Đình Chung, Trưởng Ban Quân sự quận 3, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1967-1971). “Vì còn nhỏ tuổi, lại đang là học sinh nên khi đi làm nhiệm vụ tôi không hề bị địch phát hiện. Cứ thế, những năm tháng tuổi trẻ của tôi sống trong nội thành Sài Gòn, làm giao liên, vận chuyển tài liệu rồi trở thành biệt động Sài Gòn lúc nào không hay”, ông Đỗ Văn Dũng tự hào kể.

TS. Đỗ Văn Dũng và cựu chiến binh Nguyễn Công Trung, Chủ tịch Câu lạc bộ trái tim người lính miền Tây tại khu vườn từng có căn hầm bí mật của lực lượng biệt động Sài Gòn

TS. Đỗ Văn Dũng và cựu chiến binh Nguyễn Công Trung, Chủ tịch Câu lạc bộ trái tim người lính miền Tây tại khu vườn từng có căn hầm bí mật của lực lượng biệt động Sài Gòn

Cả nhà làm biệt động thành nhưng vì sự bí mật và đặc thù của nhiệm vụ, ông Dũng chỉ biết ba của mình dùng xưởng dệt che giấu, bao bọc những chiến sĩ cách mạng, má dùng tiền kinh doanh từ xưởng dệt nuôi biệt động thành, giúp đỡ bà con làng xóm, tạo thiện cảm để bảo vệ các chiến sĩ.
Ông Dũng có rất nhiều kỷ niệm trong ngôi nhà, cũng là xưởng dệt của gia đình.

“Cứ đến bữa ăn, tôi thấy má luôn để riêng 3 mâm cơm thật to. Một buổi sáng Tết Mậu Thân 1968, khi đang ở trong xưởng dệt thì tôi nghe tiếng súng nổ ở gần nhà. Tôi đi ra ngõ xem việc gì xảy ra thì thấy một chiến sĩ giải phóng quân chạy vào ngõ nhà tôi, rồi biến mất giữa các rặng tre già. Sau này tôi mới hiểu, mâm cơm của má là dành cho những người lính biệt động Sài Gòn hoạt động bí mật trong căn hầm dưới khóm tre già. Khóm tre ấy cho đến bây giờ tôi vẫn giữ lại, như một phần của ký ức chiến tranh”.

Trên mặt trận giao thương

Năm 1970, khi học xong lớp Đệ Nhất (lớp 12 bây giờ), Đỗ Văn Dũng được đồng chí Năm Xuân (Mai Chí Thọ, Chính ủy Quân khu Sài Gòn - Gia Định, sau này là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Công an) giao nhiệm vụ sang Nhật Bản học ngành kinh tế để trở về xây dựng và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Ông Dũng đã tự làm việc để đi học, không những học tập ở trường mà vì mưu sinh nên đã tích cực học trong lao động thực tế. Ông chia sẻ: “Tôi đã học được tinh thần hy sinh của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, rồi sau đó học tập được người Nhật Bản tinh thần hy sinh để phát triển kinh tế”.

Ở xứ người, việc gì ông Dũng cũng xông xáo, làm đến cùng, không kể thức đêm hay thù lao như thế nào. Ông lao vào học tập, nghiên cứu, trở thành nghiên cứu sinh xuất sắc để được nhận học bổng cao nhất của Bộ Giáo dục Nhật Bản. Những nỗ lực phi thường này đã tạo ra bản lĩnh để TS. Đỗ Văn Dũng đạt đến những thành công, đem về lợi ích cho đất nước.

Năm 1981, ông trở về nước với tấm bằng tiến sĩ kinh tế, được bố trí làm chuyên viên Sở Ngoại thương TP Hồ Chí Minh, chuyên viên trong Tổ tư vấn kinh tế cho Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, Trợ lý cho GS. Đinh Xáng (Đại biểu Quốc Hội), Giám đốc Công ty Ficonimex, là công ty xuất nhập khẩu ngoài quốc doanh đầu tiên của Việt Nam thời bấy giờ.

TP Hồ Chí Minh sau giải phóng cho đến những năm đầu thập niên 80 còn khó khăn nhiều bề. “Lúc này, đồng chí Mai Chí Thọ làm Chủ tịch UBND thành phố, trong lần tham dự triển lãm của thành phố, ông gặp tôi là trưởng gian hàng của Ficonimex và hỏi: “Cháu về nước đã làm được gì chưa?”. Tôi trả lời thật lòng là chưa làm được gì. Ông nói: “Cháu hãy trở lại Nhật Bản lập công ty, trong nước có gì xuất khẩu được thì cháu đem đi xuất khẩu. Trong nước cần mua gì thì cháu mua về”.

Ông Đỗ Văn Dũng đưa vợ con đến chào đồng chí Mai Chí Thọ trước khi gia đình ông sang Nhật Bản làm việc (ảnh chụp năm 1986).

Ông Đỗ Văn Dũng đưa vợ con đến chào đồng chí Mai Chí Thọ trước khi gia đình ông sang Nhật Bản làm việc (ảnh chụp năm 1986).

Từ năm 1983-1991 TS. Đỗ Văn Dũng quay trở lại Nhật Bản với nhiệm vụ lập công ty, tìm kiếm đối tác để xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra thế giới. Một mình lăn lộn ở xứ người, vai mang trách nhiệm lớn được giao phó nhưng lại chẳng có một đồng xu cắc bạc nào trong túi, TS. Đỗ Văn Dũng đã phải chật vật, lần mò, vận dụng hết khả năng, mối quan hệ và danh dự của mình để làm việc với đối tác Nhật Bản.

“Tôi đi chào mời các mặt hàng của Việt Nam như, mây tre đan, quế, hồi, trầm hương, gạo, ngũ cốc... nhưng vô cùng khó khăn. Rất may là hầu hết những người tôi tiếp xúc, từ cộng sản đến đại tư bản Nhật Bản đều rất ủng hộ Việt Nam. Người Nhật hầu hết đã giúp đỡ tôi, họ hướng dẫn những quy cách của các mặt hàng để Việt Nam có thể xuất khẩu qua Nhật Bản. Ban đầu là than “không khói” của Quảng Ninh, sau đó đến hàng tôm đông lạnh thì tương đối ổn định, rồi đến bán được dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu trở nên to lớn. Dầu thô của Việt Nam có thể dùng phương pháp đốt trực tiếp (direct burning) tiết kiệm được chi phí lọc dầu. Chúng tôi bán dầu thô sang Nhật Bản sản lượng lớn, hợp đồng ổn định, tạo được niềm tin, người Nhật Bản đã chọn Việt Nam để đầu tư. Đó thật sự như một giấc mơ”, TS. Đỗ Văn Dũng kể lại quá trình đi khơi nguồn giao thương cho TP Hồ Chí Minh sau giải phóng.

Cho đến bây giờ, khi nhắc lại kỷ niệm trên đất Nhật, TS. Dũng vẫn rất đỗi tự hào. Ông đưa cho chúng tôi xem bức ảnh chụp với những người bạn Nhật Bản thời vừa đi học, vừa đi làm kiếm ăn, vừa đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước. Trong đó, có những người là chuyên gia cấp cao về ngành điện, họ cùng ông Dũng cặm cụi hơn 30 năm với ước mơ “Tự động hóa lưới điện Việt Nam”. Dù đã hơn 50 năm nhưng tình cảm của họ vẫn chân thành, nồng hậu không hề thay đổi.

Với TS. Đỗ Văn Dũng, từ ngày làm chiến sĩ biệt động Sài Gòn cho đến những năm làm kinh tế ở Nhật Bản đều là nhiệm vụ thiêng liêng và đều có chung một đích đến. Đó là khát vọng hòa bình và xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

Ngọc Hoa

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/tu-lieu-antg/nguoi-chien-si-tren-hai-mat-tran-i760891/
Zalo