Nghi thức tang của người Nùng

Trong đời sống tâm linh của tộc người Nùng, lễ tang là một nghi lễ thể hiện rõ nhất đặc trưng bản sắc văn hóa; biểu hiện sinh động về quan niệm sống, thế giới quan, nhân sinh quan, là đạo lý nhân văn sâu sắc.

Lễ tang cụ Lù Thị Nhọt ngày 10/3 được các con cháu tổ chức chu đáo, đúng bản sắc phong tục người Nùng. Ảnh: Xuân Trường.

Lễ tang cụ Lù Thị Nhọt ngày 10/3 được các con cháu tổ chức chu đáo, đúng bản sắc phong tục người Nùng. Ảnh: Xuân Trường.

Người Nùng ở Tuyên Quang hiện có trên 4.000 hộ với hơn 16.000 nhân khẩu tập trung chủ yếu ở các huyện Chiêm Hóa, Sơn Dương, Hàm Yên, Na Hang, Lâm Bình.

Bản sắc văn hóa của người Nùng cũng vô cùng phong phú và độc đáo, được đúc kết, trau truốt gìn giữ qua hàng ngàn năm, thể hiện rõ nét trong đời sống thường ngày như: chăn nuôi, trồng trọt, thêu dệt. Trong văn hóa nghệ thuật truyền thống, người Nùng có nhiều thể loại dân ca: hát giao duyên, hát lượn, hát Sli giao lưu, hát kể...

Trong đời sống tâm linh của tộc người Nùng nói chung, Lễ tang là một nghi lễ thể hiện rõ nhất đặc trưng bản sắc văn hóa; là biểu hiện sinh động về quan niệm sống, về thế giới quan, nhân sinh quan; là đạo lý nhân văn sâu sắc nhất của con người. Người Nùng quan niệm con người có hai phần: phần linh hồn và phần thể xác. Linh hồn là phần không nhìn thấy được, nó tồn tại bên trong, là yếu tố quyết định sự sống hay chết của mỗi con người ở thế giới vĩnh hằng. Nếu một người đã chết thì hồn vía không còn tồn tại trong con người nữa, lúc này hồn sẽ về với tổ tiên hoặc sang thế giới khác do thần linh cai quản, vĩnh viễn không trở lại.

Thực hiện các nghi lễ dưới cây tiền trong đám tang cụ Lù Thị Nhọt.

Thực hiện các nghi lễ dưới cây tiền trong đám tang cụ Lù Thị Nhọt.

Nghi lễ cho người đã khuất có thời gian kéo dài nhất trong các nghi lễ chu kỳ đời người, được thực hành đầy đủ nhất theo trình tự, mô tả đường đi của con người từ cõi dương về cõi âm; chết không phải là hết, sau khi chết, hồn người sẽ tiếp tục sống ở cõi âm, nơi có ông bà, tổ tiên và thần linh; người Nùng cũng cùng quan điểm suy nghĩ thuần Phật “trần sao, âm vậy”.

Sau khi thực hiện các thủ tục chôn cất người mất, chọn được ngày lành, tháng tốt, người Nùng sẽ tổ chức lễ ma khô. Nghi lễ này có thể diễn ra ngay sau khi chôn cất, hoặc 5 – 10 năm sau đó khi gia chủ có điều kiện.

Ngày 10/3, trong lễ tang ma cho cụ Lù Thị Nhọt (89 tuổi, phường Tân Hà, TP. Tuyên Quang), chia sẻ với PV Báo Đại Đoàn Kết, chị Nguyễn Thị Minh là con dâu của người mất cho biết: “Văn hóa của người Nùng thể hiện lòng thành kính, tiếc thương, hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ; làm an lòng người đã khuất khi về với tổ tiên; mong muốn phù hộ con cháu ở cõi dương luôn an nhiên, hạnh phúc. Gia đình rất muốn gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa này để các thế hệ con cháu mai sau luôn nhớ về nguồn cội tổ tiên”.

Trong Lễ tang ma, thầy tào giữ vai trò chính trong suốt quá trình tổ chức tang lễ. Thầy tào hỏi rất kỹ về gia đình, gia phả dòng họ, thứ tự ông, bà, cụ nội, cụ ngoại, ai trước ai sau, nhà có bao nhiêu anh chị em (của người chết) để ghi vào tờ sớ bằng chữ nho, được đặt trang trọng trên bàn lễ. Ý nghĩa của tờ sớ là để mời Ngọc hoàng, ông Thánh, các chư vị thần linh xuống chứng kiến việc lễ, cầu phúc lộc, bình an cho gia đình, họ hàng.

Thầy tào Sải Dìn Lâm (52 tuổi, Hoàng Su Phì, Hà Giang) cho biết: Gia đình người Nùng giàu hay nghèo đều tổ chức làm nhà táng hai tầng dán giấy xanh đỏ tím vàng trang trí đẹp để tặng cho người khuất. Khi đến dự lễ cúng, các con, cháu đều có các lễ vật tùy tâm mang đến làm lễ, tỏ lòng biết ơn; đặc biệt, các con, cháu tổ chức làm cây tiền cao nhiều tầng để báo hiếu. Theo quan niệm người Nùng, cây tiền càng cao càng to thể hiện gia đình khá giả; nhà có bao nhiêu con thì có bấy nhiêu cây tiền.

Người Nùng quan niệm, trong những ngày đầu người chết chưa cấy trồng, chăn nuôi được, họ phải có tiền để mua đồ ăn, sắm sửa vật dụng. Cuộc sống hằng ngày cũng cần phải có tiền để chi dùng nên con cháu sẽ làm những cây tiền".

Là người Nùng, theo bố mẹ làm cây tiền từ khi mới 8 tuổi, chị Lù Thị Dăm (37 tuổi, Hoàng Su Phì, Hà Giang) hiện được coi là “bàn tay vàng” trong cộng đồng người Nùng ở Hà Giang về sự khéo léo khi làm cây tiền. Chia sẻ với PV Báo Đại Đoàn Kết, chị Dăm cho biết: “Làm cây tiền phải có một đội từ 5 – 6 người, làm liên tục trong khoảng từ 7 – 10 ngày mới xong; kỹ thuật cắt ghép, kết nối, tạo hình hoa văn đòi hỏi phải rất tỉ mỉ, có kinh nghiệm và mang thẩm mỹ rất cao; vật liệu quan trọng nhất của cây tiền là giấy lụa trắng. Cây tiền của người Nùng là kết tinh văn hóa truyền đời đã qua nhiều trăm năm”.

Thầy tào Sải Dìn Lâm cho biết thêm: Một bài cúng cây tiền chia ra làm 6 phần cúng nhỏ, gồm: mở đầu là lễ tế cây tiền, lễ thỉnh hương tại bàn cứu khổ, lễ thỉnh trước mặt linh tiền, lễ thỉnh ra nhận cây tiền, lễ cúng kết thúc ở cây tiền và cuối cùng là quay lại trước bàn thờ linh vị làm lễ cúng tạ. Hết 6 phần cúng, thầy làm phép dưới chân cây tiền. Con cháu vái lạy và hạ cây tiền xuống, dâng đến trước bàn lễ làm thủ tục để hóa.

Thường việc cúng lễ ở người Nùng được làm trong 3 ngày, nhưng quan trọng nhất là Lễ đón hồn (cầu gọi hồn), đây là tập quán tín ngưỡng có từ lâu đời. Lễ đón hồn là để hồn được về với tổ tiên dòng họ, phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Thể hiện lòng biết ơn vô hạn, sự hiếu thảo của con cháu, anh em đối với người đã khuất. Nghi lễ mang tính giáo dục nhân văn vô cùng sâu sắc về đạo đức, nhân cách của những người sống có tình nghĩa với người đã khuất.

Anh Sải Trung Phong, con trai cụ Lù Thị Nhọt cho biết: “Phong tục làm ma của người người Nùng rất phong phú. Tuy nhiên thực hiện theo nếp sống mới văn minh, gia đình chỉ làm đơn giản, không tổ chức linh đình tốn kém nhưng vẫn giữ được những bản sắc văn hóa. Đây chính là đạo lý giáo dục nhân văn nhất để con cháu luôn biết ơn dành cho đấng sinh thành, dưỡng dục”.

Xuân Trường

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/nghi-thuc-tang-cua-nguoi-nung-10301661.html
Zalo