Nghị quyết 57 sau gần một năm đã thay đổi được gì?
Nghị quyết 57-NQ/TW ban hành ngày 22-12-2024 đã đi gần hết năm đầu triển khai, đủ để nhìn thấy những chuyển dịch rõ nét trong cách Nhà nước và thị trường tiếp cận đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết 57-NQ/TW đang định hình cách tiếp cận mới với đổi mới sáng tạo. Ảnh minh họa: TL
Điểm mới không nằm ở vài dự án riêng lẻ, mà ở việc đổi mới sáng tạo được kéo vào khuôn khổ hành động có mục tiêu định lượng, có cơ chế thí điểm, và có nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp thực thi. Khi mức độ chắc chắn của chính sách tăng, doanh nghiệp có xu hướng mạnh dạn hơn với đầu tư công nghệ dài hạn, đặc biệt ở những ngành cạnh tranh gay gắt và phụ thuộc vào năng suất.
Nghị quyết 57-NQ/TW tạo ra bước ngoặt quan điểm khi đặt khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thành đột phá quan trọng hàng đầu, nhấn mạnh yêu cầu chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo và chấp nhận rủi ro có kiểm soát trong nghiên cứu phát triển.
Ngay sau đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết 03/NQ-CP để cụ thể hóa thành chương trình hành động có phân công nhiệm vụ và lộ trình triển khai; tiếp đến Nghị quyết 71/NQ-CP ngày 1-4-2025 cập nhật, bổ sung chương trình hành động, cho thấy cách làm là triển khai thực chất rồi điều chỉnh để bám sát thực tiễn thay đổi nhanh của công nghệ. Sau gần một năm, kết quả nổi bật thể hiện ở việc chuỗi chính sách bám theo Nghị quyết 57 được ban hành nhanh hơn thường lệ, đồng thời thị trường cũng phản ứng bằng sự quyết liệt đầu tư cho hạ tầng công nghệ, còn hệ thống giáo dục bắt đầu chuẩn bị năng lực mới cho lực lượng lao động tương lai.
Thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo
Nhìn từ góc độ kết quả, sau gần một năm, điều quan trọng không chỉ là có thêm bao nhiêu sáng kiến mới, mà là các điều kiện nền để đổi mới sáng tạo đã được cải thiện đến đâu. Khi những điều kiện nền như vốn, cơ chế thử nghiệm, cách phân bổ nguồn lực và mức độ chấp nhận rủi ro được tháo gỡ, các hoạt động đầu tư công nghệ sẽ có cơ hội bứt lên và lan sang nhiều lĩnh vực. Từ điểm tựa đó, phần tiếp theo sẽ đi vào cách Nghị quyết 57 đã mở đường cho dòng vốn và cơ chế đầu tư công nghệ vận hành thực chất hơn.

Nghị quyết 57 mở đường cho đầu tư công nghệ bằng cách đặt mục tiêu nguồn lực đủ cụ thể để tạo sức ép triển khai, như định hướng chi cho nghiên cứu và phát triển đạt 2% tổng sản phẩm trong nước và bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hàng năm cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Xét về cơ chế thì Nghị quyết 193/2025/QH15 cho phép thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt để tạo đột phá trong phát triển khoa học công nghệ và Nghị định 88/2025/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết là bước chuyển quan trọng, vì nó biến tinh thần thí điểm thành khung triển khai có căn cứ pháp lý, giúp giảm tâm lý e ngại trách nhiệm khi làm cái mới. Khi cơ chế đã mở, vốn nhà nước có thể đóng vai trò kích hoạt thông qua đặt hàng, tài trợ, thử nghiệm, còn vốn xã hội có cơ sở để tham gia mạnh hơn vì rủi ro thể chế giảm xuống.
Năm đầu triển khai cho thấy đổi mới sáng tạo không chỉ là câu chuyện vốn, mà là câu chuyện nhân lực, và trí tuệ nhân tạo (AI) bắt đầu được đưa vào lộ trình đào tạo phổ thông theo hướng thí điểm để chuẩn bị năng lực nền cho số đông. Lộ trình thí điểm từ tháng 12-2025 đến 5-2026 phản ánh cách tiếp cận thử trước rồi hoàn thiện trước khi mở rộng, hạn chế tình trạng triển khai ồ ạt nhưng thiếu chuẩn nội dung. Cùng lúc, ở bậc đại học, số cơ sở đào tạo liên quan đến AI và các lĩnh vực gần kề gia tăng, cho thấy thị trường lao động đang kéo hệ thống đào tạo chuyển dịch theo hướng gắn với dữ liệu và tự động hóa.
Đi xa hơn, việc phổ cập kỹ năng số ở cộng đồng và trong hệ thống công quyền là điều kiện để dịch vụ số và kinh tế số tăng tốc, vì nếu người dùng cuối không đủ năng lực tiếp nhận thì công nghệ sẽ không lan tỏa thành năng suất.
Kết quả sau gần một năm không nên chỉ nhìn vào số lượng hệ thống đã mua sắm, mà nên nhìn vào mức độ hình thành tiêu chuẩn dữ liệu, cơ chế chia sẻ và kỷ luật bảo vệ dữ liệu để giảm rủi ro khi mở rộng quy mô.
Lĩnh vực tài chính, đặc biệt là ngân hàng, đang đi đầu về đổi mới sáng tạo vì áp lực cạnh tranh diễn ra theo ngày và chất lượng trải nghiệm số quyết định khả năng giữ khách hàng, nên đầu tư công nghệ trở thành lựa chọn bắt buộc. Dữ liệu tổng hợp từ nhóm ngân hàng niêm yết cho thấy chi phí đầu tư công nghệ năm 2024 đạt 32.437 tỉ đồng, tăng so với năm trước và chiếm 14,85% tổng chi phí hoạt động, phản ánh xu hướng ưu tiên công nghệ ở cấp chiến lược chứ không còn là dự án ngắn hạn. Mức độ chi tiêu cũng phân hóa mạnh giữa các ngân hàng, có trường hợp tỷ lệ chi công nghệ trên chi phí hoạt động lên tới 42,39%, cho thấy một số đơn vị đang tái thiết mô hình vận hành dựa trên dữ liệu và tự động hóa quy trình ở quy mô lớn. Tác động lan tỏa của nhóm đi đầu là tạo nhu cầu lớn cho hạ tầng số, an toàn thông tin, định danh điện tử và thanh toán số, qua đó kéo hệ sinh thái công nghệ phát triển theo.
Mở đường cho các chính sách đổi mới tiếp theo
Nếu đổi mới sáng tạo là một quá trình dài hơi, thì chính sách là phần khung quyết định quá trình đó đi nhanh hay bị chậm lại bởi thủ tục và tâm lý e ngại trách nhiệm. Sau khi nhìn vào lực đẩy từ nguồn lực và triển khai trên thực tế, cần chuyển sang lớp nền còn lại là hệ thống quy định đi kèm, vì chuỗi văn bản bám sát và cơ chế thí điểm sẽ quyết định mức độ thông suốt của triển khai. Do đó, phần tiếp theo sẽ tập trung vào cách Nghị quyết 57 mở đường cho các chính sách được ban hành và vận hành theo hướng tạo điều kiện cho cái mới.
Một kết quả quan trọng sau gần một năm là tốc độ hoàn thiện hành lang pháp lý bám theo Nghị quyết 57, bắt đầu từ chương trình hành động của Chính phủ (Nghị quyết 03/NQ-CP) và việc cập nhật kịp thời (bằng Nghị quyết 71/NQ-CP), tạo cảm giác hệ thống đang vận hành theo một trục ưu tiên rõ ràng. Trục này được gia cố bằng cơ chế thí điểm đặc biệt theo Nghị quyết 193/2025/QH15 và hướng dẫn thực hiện tại Nghị định 88/2025/NĐ-CP, giúp các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai công nghệ có làn ưu tiên trong khuôn khổ quản trị rủi ro. Ở tầng luật, Luật Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15 có hiệu lực từ 1-10-2025 góp phần ổn định hóa công cụ chính sách, giảm phụ thuộc vào chỉ đạo tình huống và tăng khả năng dự báo cho doanh nghiệp.
Cuối năm 2025 xuất hiện một dấu mốc rất mới là Luật AI được thông qua ngày 10-12-2025, với cấu trúc 35 điều, lần đầu tạo khung pháp lý riêng cho lĩnh vực này. Khi AI đi vào các lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, y tế, giáo dục, khung luật giúp doanh nghiệp biết rõ hơn ranh giới trách nhiệm, yêu cầu an toàn và nguyên tắc quản trị rủi ro, từ đó giảm vùng mơ hồ vốn làm chậm đầu tư. Đồng thời, giá trị của luật sẽ phụ thuộc lớn vào các văn bản hướng dẫn và tiêu chuẩn kỹ thuật đi kèm, vì chính các chi tiết thực thi mới quyết định AI được khuyến khích hay bị nghẽn bởi thủ tục.
Một mạch chính sách cần nhấn mạnh thêm là dữ liệu và hạ tầng số, vì đổi mới sáng tạo sẽ không thể tăng tốc nếu dữ liệu tiếp tục phân mảnh, thiếu liên thông và thiếu cơ chế chia sẻ an toàn giữa các cơ quan và giữa khu vực công với doanh nghiệp. Nghị quyết 57 đặt trọng tâm phát triển kinh tế dữ liệu, cơ sở dữ liệu lớn, kết nối chia sẻ đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu ngành, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm an toàn thông tin và an ninh dữ liệu. Khi dữ liệu được chuẩn hóa và liên thông, các ứng dụng số và AI mới có nền để tạo giá trị, còn cơ quan quản lý mới có thể điều hành dựa trên dữ liệu cập nhật thay vì phụ thuộc vào báo cáo thủ công. Vì vậy, kết quả sau gần một năm không nên chỉ nhìn vào số lượng hệ thống đã mua sắm, mà nên nhìn vào mức độ hình thành tiêu chuẩn dữ liệu, cơ chế chia sẻ và kỷ luật bảo vệ dữ liệu để giảm rủi ro khi mở rộng quy mô.
Sau gần một năm, vai trò lớn nhất của Nghị quyết 57 là tạo đà thể chế và tạo niềm tin triển khai: chương trình hành động được ban hành sớm và được cập nhật; cơ chế thí điểm đặc biệt được thiết kế để giảm sợ sai; luật nền tảng về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã có hiệu lực, còn luật riêng về AI đã xuất hiện để định hình cách ứng dụng công nghệ mới. Ở phía thị trường, các doanh nghiệp nói chung và các định chế tài chính nói riêng đã và đang tăng mạnh chi tiêu cho công nghệ là dấu hiệu cho thấy đổi mới đã chuyển thành hành vi đầu tư, chứ không chỉ là định hướng. Từ đây, thước đo thành công của giai đoạn tiếp theo nằm ở chất lượng thực thi: thủ tục có thực sự thông hơn hay không, dữ liệu có thực sự liên thông và được bảo vệ tốt hay không, cơ chế mua sắm và đặt hàng công nghệ có tạo được thị trường cho sản phẩm trong nước hay không, và năng suất có tăng lên đủ để chứng minh rằng đổi mới sáng tạo đã trở thành động lực tăng trưởng.
(*) CFA
































