Nghề đóng thuyền gỗ ở đảo chìm Hà Nam - Bí mật của những con thuyền đi ngược gió

Nghề đóng thuyền gỗ ở Cống Mương, TX Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh) được hình thành từ gần 600 năm trước. Tại đây, rất nhiều loại tàu thuyền vươn khơi bám biển đã ra đời, nhưng nổi tiếng nhất là loại thuyền ba vát chạy buồm cánh dơi .

Vào thời kì phát triển, ở Cống Mương có gần 30 xưởng đóng tàu vỏ gỗ với khoảng 500 thợ, đến nay các xưởng chủ yếu là sửa chữa bảo dưỡng, không còn đóng mới.

Vào thời kì phát triển, ở Cống Mương có gần 30 xưởng đóng tàu vỏ gỗ với khoảng 500 thợ, đến nay các xưởng chủ yếu là sửa chữa bảo dưỡng, không còn đóng mới.

Theo bia ký và gia phả của các dòng họ Tiên Công ghi lại, gần 600 năm trước một nhóm cư dân từ Thăng Long (Hà Nội) và Nam Định đã xuôi thuyền theo sông Hồng, ra cửa sông Bạch Đằng và đặt chân lên vùng đảo Hà Nam hoang sơ khai canh mở đất. Sau đó, các cụ dùng thuyền chở đất đắp đê lấn biển. Ngoài đê, các cụ dùng thuyền đánh cá, vận tải, giao thương buôn bán, trong đê thì trồng lúa. Phương tiện đi lại vào đất liền hay về thăm cố hương đều là thuyền gỗ. Đó là lý do nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ ở đảo chìm Hà Nam thịnh hành. Thợ đóng thuyền vùng này hầu hết là con cháu Tiên Công thuộc dòng họ Vũ, họ Nguyễn và họ Lê.

Cũng từ đây, như một kiệt tác của các Tiên Công với sự kết hợp khéo léo giữa những hiểu biết, kỹ năng và kiến thức đã cho ra thuyền ba vát chạy buồm cánh dơi có khả năng đi ngược nước, ngược gió, giúp ngư dân làm chủ biển khơi, với tôm cá đầy khoang.

Nhờ những đóng góp to lớn, làng nghề Cống Mương đã được nhiều triều đại phong kiến ghi nhận và ban sắc phong. Tiêu biểu là vào năm thứ 28 triều vua Tự Đức, làng vinh dự được phong danh hiệu "Làng nghề ích nước, lợi nhà, dân lợi, khí dụng". Đến năm Thành Thái thứ 8, Nhà vua tiếp tục ban sắc khen ngợi tay nghề tài hoa của thợ thuyền nơi đây. Đặc biệt, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, những con thuyền do làng nghề đóng không chỉ gắn bó với ngư dân bám biển, mà còn là phương tiện vận chuyển vũ khí, lương thực, góp phần quan trọng vào ngày toàn thắng của dân tộc.

Cống Mương là một trong hai làng nghề có bề dày lịch sử tại thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh chuyên về nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ, không chỉ mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân ở vùng đảo Hà Nam mà còn đóng góp rất lớn vào bức tranh văn hóa của tỉnh Quảng Ninh.

Vào thời kì phát triển, cả làng có gần 30 xưởng đóng tàu vỏ gỗ với khoảng 500 thợ, đóng mới 30 chiếc/năm. Năm 2014, làng nghề Cống Mương được công nhận là làng nghề truyền thống.

Có truyền thống lâu đời và mang trong mình nhiều trầm tích văn hóa độc đáo đáng tự hào là thế, tuy nhiên vài năm trở lại đây, làng nghề Cống Mương đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền bởi thưa thớt đơn đặt hàng. Hiện, chỉ còn khoảng 10 xưởng với vài chục thợ vẫn cố gắng duy trì nghề, nhưng công việc rất ít, chủ yếu là bảo dưỡng, sửa chữa tàu thuyền chứ không có đóng mới.

Từ chất liệu gỗ cho đến chất liệu vải để làm cánh buồm của thuyền mô hình bán cho du khách đều giống như của những con thuyền ra khơi.

Một trong số ít những gia đình vẫn còn duy trì được xưởng sửa chữa, tàu thuyền ở Cống Mương - ông Lê Văn Miêng (Sn 1951) với hơn 50 năm làm nghề đóng thuyền chia sẻ, với những quy định về hạn ngạch cấp phép khai thác thủy sản, cùng yêu cầu tàu đánh bắt vùng lộng phải có chiều dài từ 15m trở lên, đã khiến chi phí đóng tàu tăng cao. Việc tìm kiếm nguồn gỗ có kích thước lớn để đóng tàu cũng ngày càng khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu đóng tàu sắt, tàu composite ngày một lớn, khiến tàu vỏ gỗ dần bị lãng quên.

Con trai ông Lê Văn Miêng - anh Lê Đức Tuấn (Sn 1975) với hơn 30 làm nghề đóng thuyền tại Cống Mương tâm sự, gỗ để đóng những chiếc tàu dài thân khai thác thủy sản ở những vùng theo quy định như hiện nay đã cơ bản không còn, nhưng đó không phải là nguyên nhân chính, vì thiếu gỗ thì đi nhập từ tỉnh khác hay mua từ nước ngoài về. Với kinh nghiệm làm nghề của mình anh Tuấn chia sẻ thêm, chi phí đóng tàu gỗ với cùng kích thước so với tàu vỏ sắt, tàu composite thì tàu gỗ vẫn là rẻ nhất.

Ông Lê Văn Miêng (bên phải) với hơn 50 năm làm nghề đóng thuyền ba vát chạy buồm cánh dơi có khả năng đi ngược nước, ngược gió.

Cũng theo nhiều bậc cao niên trong làng, không phải đến bây giờ, những người tâm huyết với làng nghề mới trăn trở tìm hướng đi mới. Những năm trước, nhiều hộ đã chủ động chuyển sang đóng tàu vỏ sắt, tàu composite. Họ liên kết, hợp tác, thậm chí cử con em đi học hỏi, tiếp thu những kỹ thuật hiện đại để thích nghi với thời cuộc.

Đồng thời, UBND thị xã Quảng Yên cũng tích cực kết nối doanh nghiệp về Cống Mương, mở ra cơ hội khai thác du lịch trải nghiệm, góp phần tạo sinh kế cho người dân. Thế nhưng, khi công cuộc chuyển đổi vừa vào guồng, thì đại dịch Covid-19 bất ngờ ập đến. Không có vốn để duy trì, nhiều xưởng buộc phải đóng cửa, người thợ đành ngậm ngùi rẽ sang nghề khác.

Nhìn vào tủ mô hình những con thuyền ba vát chạy buồm cánh dơi để bán làm quà lưu niệm cho du khách khi đến với làng nghề Cống Mương, ông Lê Văn Miêng cho biết thêm, bây giờ không còn khách đặt hàng đóng thuyền mới, xưởng chủ yếu sửa chữa nhưng việc cũng không nhiều. Chính vì thế, để hoài niệm, bà con chỉ còn cách đóng mô hình để bán cho du khách, mô hình này như bản thu nhỏ của những con thuyền ra khơi, từ chất liệu gỗ cho đến chất liệu vải để làm cánh buồm.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Viện - Trưởng khoa Du lịch Trường Đại học Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), cho rằng: sản phẩm thuyền ba vát rất độc và lạ, trên cả nước không nơi đâu có. Tuy nhiên, khi biến thuyền ba vát buồm cánh dơi thành sản phẩm lưu niệm thì không hiệu quả bởi giá thành cao, không tiện lợi để vận chuyển, khó trở nên phổ biến rộng rãi.

Ông Dương Văn Hào - Phó Chủ tịch UBND TX Quảng Yên chia sẻ, làng nghề Cống Mương đang đối mặt với nhiều khó khăn, trong khi chính quyền địa phương vẫn chưa có cơ chế hỗ trợ thực sự phù hợp. Thời gian tới, thị xã và các cơ quan chức năng sẽ nghiên cứu, tìm giải pháp để bảo tồn và phát triển làng nghề, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến đất đai, nhà xưởng và khai thác tiềm năng du lịch trải nghiệm.

Các làng nghề truyền thống không chỉ là “kế sinh nhai” cho cả làng mà còn gắn kết mạnh mẽ với những phong tục, lễ hội và nghi lễ truyền thống của dân tộc. Làng nghề truyền thống như một gạch nối giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Thông qua quá trình sản xuất và truyền đạt kỹ thuật, người làm nghề đã truyền bá và duy trì các giá trị văn hóa sâu sắc của dân tộc qua các thế hệ.

Chính vì vậy, việc bảo vệ, phát triển các làng nghề truyền thống cần sự chung tay từ các chương trình của quốc gia, các chính sách hỗ trợ của địa phương cho đến sự nỗ lực thích ứng với thời cuộc của chính các làng nghề.

Ngày 07/7/2022, Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 801/QĐ-TTg “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030”. Mục tiêu của Chương trình tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường, xây dựng các khu dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn bền vững. Phấn đấu đến năm 2030 khôi phục, bảo tồn được ít nhất 129 nghề truyền thống và 208 làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền; công nhận mới 213 nghề và 96 làng nghề truyền thống; phát triển khoảng 301 làng nghề gắn với du lịch; trên 80% làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động có hiệu quả. Chương trình có nhiệm vụ, duy trì và phát triển đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi, tạo nòng cốt thúc đẩy công tác đào tạo, truyền nghề, thực hành nghề thủ công truyền thống, lan tỏa các giá trị của di sản văn hóa nghề truyền thống trong cộng đồng, đặc biệt đối với thế hệ trẻ; bảo tồn, phát triển kỹ năng nghề truyền thống, sáng tạo thêm nhiều sản phẩm, tác phẩm mới có giá trị. Sưu tầm, lưu giữ và tổ chức trưng bày các tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của các nghệ nhân, thợ giỏi, nghệ nhân tiêu biểu các cấp. Tổ chức phong tặng, tôn vinh các danh hiệu thợ giỏi, nghệ nhân, nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân, bảng vàng gia tộc nghề truyền thống Việt Nam và các sản phẩm làng nghề tiêu biểu. Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống, làng nghề truyền thống

Đức Dương

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/nghe-dong-thuyen-go-o-dao-chim-ha-nam-bi-mat-cua-nhung-con-thuyen-di-nguoc-gio-post543619.html
Zalo