Nghề 'đập búa ra tiền' trên ghe ở miền Tây
Ở miền Tây, hàng chục năm nay vẫn có những chiếc ghe lò rèn lênh đênh sông nước.

Theo năm tháng, những chiếc ghe lò rèn vẫn lênh đênh mang theo cái nghề 'đập búa ra tiền' len lỏi đến từng nhà.
Dù bây giờ nghề rèn không còn hưng thịnh như xưa nhưng còn đó những con người kiên trì, cần cù ngày đêm giữ cho lò rèn quanh năm luôn đỏ lửa.
Thủy chung gắn bó với nghề
Là một trong những tỉnh miền Tây sông nước, Hậu Giang không chỉ nổi tiếng với những vườn cây trái sum suê, mà còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề rèn.
Nghề rèn không chỉ đơn thuần là công việc mưu sinh, mà còn là nét văn hóa quý giá, gắn liền với đời sống người dân nơi đây. Những chiếc ghe lò rèn len lỏi qua từng con kênh, mang theo tiếng búa gõ chan chát, giữ hồn quê giữa thời đại công nghiệp hóa.
Anh Đỗ Thanh Sang (35 tuổi) xuất thân từ xã Bình Thành, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang đã theo nghề rèn từ khi còn nhỏ. Yêu thích sự tự do và đam mê nghề, anh quyết định lập lò rèn trên ghe, cùng gia đình len lỏi khắp các con sông miền Tây để mưu sinh. Mỗi ngày, anh làm việc hơn 10 tiếng, thu nhập đủ nuôi sống gia đình 5 người.
Một năm 2 lần, ghe rèn anh ghé khúc sông (kênh Thị Đội, Thạnh Lộc, Kiên Giang). Đã thành quen, nhìn thấy ghe anh, nghe tiếng rao quen tai là bà con gọi. Họ đưa dao, búa, phảng (dụng cụ phát cỏ của người miền Tây) lên ghe, anh Sang ra hiệu cho con trai phía trong ghe nổ máy.
Khi máy nổ, than trong lồng được thổi hồng rực, anh Sang đưa vào lò chiếc phảng gỉ sét, dài 1,2m rồi đưa lên búa dùng sức đập liên hồi cho phần lưỡi chiếc phảng mỏng ra, lớp gỉ sét bong sạch. Anh thay chuôi phảng mới rồi mài lại lưỡi...
Anh Ngô Minh Bảo, nhà sát mé bờ kênh, leo lên ghe nhìn anh Sang làm rồi tấm tắc: “Anh Sang làm dao, mài kéo sắc, bền, dùng ngon tới nửa năm sau. Tôi mua cây kéo làm cá ba năm nay vẫn sắc nguyên như mới nè”.
Không chỉ có anh Sang, anh Đỗ Văn Phúc, năm nay đã hơn 40 tuổi, cũng là một người thợ rèn kỳ cựu, đã gắn bó với nghề hơn 20 năm. Anh Phúc cho biết, ngày xưa, khi còn ở quê, khu xóm lúc nào cũng rộn ràng tiếng búa, tiếng máy mài. Nhưng dần dần, khách hàng ít đi, anh quyết định đóng một chiếc ghe, mang lò rèn lênh đênh trên sông, đi khắp các tỉnh miền Tây.
Chiếc ghe của anh Phúc ngày đêm vẫn luôn đỏ lửa, len lỏi khắp các miền nông thôn từ Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, nơi nào có kênh rạch là nơi đó có chiếc ghe lò rèn của anh xuất hiện.
Theo anh Phúc, nghề rèn kiếm nhiều tiền nhưng do chi phí mướn thợ, tiền dầu, than, điện khá nhiều nên lợi nhuận sau khi trừ đi mọi khoản chi phí cũng chỉ coi như “lấy công làm lời”. Một chuyến đi khoảng 20 ngày, thu nhập cũng được khoảng 15 triệu đồng, đủ để trang trải cuộc sống gia đình.
Giá chung cho việc mài mới, sửa lưỡi dao khoảng 30.000 - 50.000 đồng. Làm mới, thay chuôi dao, kéo cũng khoảng hơn 50.000 đồng. Riêng chiếc phảng dài chừng hơn 1m nên công làm cao hơn, khoảng 100.000 đồng. Muốn đổi dao cũ thì bù thêm chút tiền.
Ông Nguyễn Công Bình (62 tuổi), sống trên kênh Tràm Còn, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, nơi các ghe rèn thường ghé, cho hay: “Bà con xóm này 10 năm nay không mang dao kéo ra chợ mài nữa, cần mua mới cũng đợi khi nào ghe tới bến mới mua. Một năm hai lần, ghe rèn ghé bến bà con lại xách dao, kéo chờ sẵn như đã hẹn từ trước”.

Người trẻ học nghề từ thợ rèn lành nghề.
Nghề rèn kỳ công và tỉ mỉ
Ông Lâm Văn Chín (94 tuổi), ngụ huyện Châu Thành, Hậu Giang được xem là “ông tổ của nghề rèn” ở vùng này. Với hơn 60 năm gắn bó với nghề, ông Chín không chỉ truyền dạy kỹ thuật cho con cháu, mà còn tiên phong trong việc đưa lò rèn lên ghe, mở rộng thị trường đến các tỉnh lân cận. Ông luôn nhắc nhở con cháu rằng, nghề rèn không chỉ đòi hỏi sự khéo léo, mà còn cần sự kiên trì và lòng yêu nghề thực sự.
Để tạo ra một con dao, cái búa hay bất kỳ sản phẩm kim loại nào, người thợ phải trải qua nhiều công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm. Trước tiên, họ phải chọn được loại thép phù hợp, sau đó nung đỏ trên bếp than hồng.
Khi đạt đến nhiệt độ thích hợp, người thợ sẽ dùng búa rèn liên tục để tạo hình sản phẩm. Công đoạn mài dao, đánh bóng là bước cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, quyết định độ sắc bén và bền bỉ của sản phẩm.
Hơn 60 năm gắn bó với nghề rèn, ông Chín đã chỉ dạy cho rất nhiều người. Lớp thợ mới nối tiếp lớp thợ cũ. Bén duyên với nghề rèn hơn 2 năm, em Lê Hữu Nghĩa (16 tuổi, Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang) thổ lộ: “Em đã yêu thích nghề rèn từ khi thấy ông Chín biến một miếng thép vuông thành một cây dao mỏng manh nhưng vô cùng sắc bén.
Từ lúc theo ông học nghề, em nhận ra nghề rèn không khó để học nhưng rất cực, đòi hỏi sức khỏe và sự nhẫn nại. Nhưng vì đam mê với nghề, yêu nghề nên em quyết tâm học hỏi để theo được nghề rèn”.
Còn đối với em Đỗ Hoàng Khang (Phụng Hiệp, Hậu Giang), chỉ mới 12 tuổi nhưng đã đi ghe học nghề rèn. Theo gia đình lênh đênh trên chiếc ghe rèn, khi được hỏi lớn lên thích làm nghề gì, Khang trả lời chắc nịch: “Đi ghe, làm rèn tuy vất vả nhưng là nghề chân chính. Chỉ cần làm việc chân chính thì không có gì đáng ngại. Người ta cần thầy giỏi nhưng cũng rất cần thợ giỏi. Con muốn trở thành thợ rèn giỏi”.

Khi rèn một con dao, người thợ phải am hiểu loại thép sử dụng, điều chỉnh lửa phù hợp.

Chiếc ghe của anh Đỗ Văn Phúc ngày đêm đỏ lửa, len lỏi khắp các miền nông thôn từ Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau…
Thách thức và tương lai
Những ngày đầu rong ruổi trên ghe rèn khắp các tuyến sông vùng Cà Mau, Bạc Liêu, anh Đỗ Văn Phúc dần nhận ra rằng, càng vào sâu trong các con rạch nhỏ, nhu cầu mua sắm, sửa chữa dao kéo, nông cụ của bà con càng lớn. Mải mê với công việc, anh không để ý đến con nước ròng, để rồi khi nước rút cạn, chiếc ghe của anh mắc kẹt giữa bãi bùn, không cách nào thoát ra được.
“Bị kẹt giữa con rạch nhỏ, xung quanh chẳng có ai để nhờ giúp đỡ, muốn mua đồ ăn cũng chỉ đành chờ nước lên. Khi ra sông lớn, ghe rèn lại đối mặt với sóng to, gió dữ. Ở mũi Cà Mau hay khu vực gần cửa biển Gành Hào (Bạc Liêu), vào mùa gió lớn, có khi sáng ngủ dậy đã thấy ghe trôi lênh đênh giữa dòng. Gió mạnh có lúc cuốn bay mái tôn, cột ghe, đồ đạc rơi hết xuống sông, cả người lẫn ghe ướt sũng. Những đêm như thế, người trên ghe rèn lại thức trắng”, anh Phúc nhớ lại.
Mặc dù, nghề rèn từng trải qua thời kỳ “hoàng kim”, nhưng với sự phát triển của công nghiệp và sự xuất hiện của các sản phẩm hiện đại, nghề rèn truyền thống đang đối mặt với nhiều thách thức. Dụng cụ cơ khí sản xuất hàng loạt, giá thành rẻ hơn, mẫu mã bắt mắt hơn đang dần chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, việc chi phí nguyên liệu tăng cao đã khiến nhiều lò rèn dần dần “tắt lửa”.
Mặc mọi điều biến động, 20 năm qua, anh Đỗ Văn Phúc vẫn chăm chỉ, tâm huyết với nghề. Nhìn về chiếc ghe lò rèn đang đỏ lửa, anh Phúc vui vẻ nói rằng: “Tuy nghề này phải chịu bụi bặm, khói lửa, lênh đênh trên sông nước nhưng nhìn những cây dao, chiếc kéo mình làm ra khách hàng thấy thích và tin tưởng thì lòng vẫn vững với nghề. Khi người dân vẫn còn yêu thích những sản phẩm truyền thống, chờ đợi chiếc ghe của tôi quay lại để mua dao, mài kéo, tôi thấy rất vui, rất hạnh phúc”.
Nghề rèn ngày nay đã bớt nhọc nhằn hơn nhờ sự hỗ trợ của máy móc. Thời gian hoàn thiện một cây dao chỉ còn khoảng một phần tư so với trước đây. Tuy nhiên, theo những người thợ lành nghề, kỹ thuật và kinh nghiệm vẫn là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm.
Anh Đỗ Văn Phúc cho biết, khi rèn một con dao, người thợ phải am hiểu loại thép sử dụng, điều chỉnh lửa phù hợp. Nếu lửa quá lớn, dao dễ mẻ khi chặt; ngược lại, nếu lửa yếu, dao không đủ độ sắc bén. “Rèn sao cho dao vừa bén, vừa chắc, chặt không sứt mẻ mới gọi là đạt chuẩn”, anh nói.

Mặc dù, nghề rèn không còn hưng thịnh như trước, nhưng anh Đỗ Văn Phúc vẫn quyết tâm bám trụ với ghe, với nghề.
Để thích ứng với nền kinh tế thị trường hiện tại, một số thợ rèn trẻ đang tìm cách cải tiến nghề truyền thống bằng cách kết hợp kỹ thuật hiện đại. Một số lò rèn bắt đầu quảng bá sản phẩm trên mạng xã hội để tiếp cận khách hàng nhiều hơn. Đó có thể là một hướng đi giúp nghề rèn thích nghi với thời đại mới mà vẫn giữ được nét truyền thống vốn có.
Anh Trần Văn Triều, thợ rèn lâu năm tại huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, chia sẻ rằng sự phát triển của xã hội buộc mỗi người phải thích nghi và đổi mới. Nếu như trước đây, các công đoạn rèn đều làm thủ công, thì nay một số quy trình đã được hiện đại hóa, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí, tạo điều kiện để anh tiếp tục gắn bó với nghề.
“Tôi cũng không nói trước là sẽ duy trì được đến bao lâu, nhưng với tôi chắc chắn vẫn theo nghề, sẽ làm đến khi nào không còn sức nữa thì thôi. Vì nghề này là cuộc sống của mình, của gia đình mình, đâu thể nào bỏ được”, anh Triều bộc bạch.
Nghề rèn trên sông ở miền Tây, là một minh chứng sống động cho sự bền bỉ và tinh thần lao động không ngừng nghỉ của người Việt Nam nói chung, người Tây Nam Bộ nói riêng. Dù thời cuộc thay đổi, những chiếc ghe lò rèn vẫn đỏ lửa và những người thợ rèn vẫn kiên trì bám trụ với nghề. Họ không chỉ giữ lửa cho gia đình, mà còn giữ gìn một nét đẹp văn hóa truyền thống của miền Tây sông nước.