Ngành Nông nghiệp tập trung kiểm soát, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp
Trước tình trạng một số hàng hóa của Việt Nam bị phát hiện không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bị từ chối khi xuất khẩu, ảnh hưởng xấu đến thương hiệu hàng Việt, ngành Nông nghiệp đã triển khai nhiều biện pháp nhằm kiểm soát, nâng cao nhận thức, đồng thời đẩy mạnh xây dựng chuỗi liên kết.
Sản xuất có trách nhiệm
Trả lời đại biểu quốc hội về việc một số hàng hóa của Việt Nam bị phát hiện không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bị từ chối khi xuất khẩu, ảnh hưởng xấu đến thương hiệu hàng Việt Nam, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, thời gian vừa quan các vụ ngộ độc thực phẩm cũng đã giảm, tuy nhiên vẫn có những trường hợp sản phẩm bị các thị trường nước ngoài trả về do chưa đảm bảo an toàn thực phẩm.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã xây dựng chuỗi liên kết để tạo ra sản phẩm “sạch từ nông trại đến bàn ăn”. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục cùng các Bộ, ngành liên quan để kiểm soát vấn đề này.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, việc xây dựng chuỗi liên kết để có được sản phẩm sạch, vượt qua các rào cản để xuất khẩu được đối với một nền nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ như nước ta hiện nay thì cần nhiều nỗ lực. Bên cạnh đó, cần truyền thông để nâng cao nhận thức, giám sát, đặc biệt cần truyền tải để bà con nông dân hiểu rằng chúng ta phải là người sản xuất có trách nhiệm, kể cả doanh nghiệp cũng không vì lợi nhuận mà đánh đổi sức khỏe của người tiêu dùng trong nước và hình ảnh của nông sản quốc gia.
Về tình trạng EU gia tăng cảnh báo an toàn thực phẩm đối với nông sản Việt Nam, ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cho biết trong 6 tháng năm 2024 số lượng cảnh báo an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật với nông sản từ EU tăng bất thường, tăng gần 20%, nhiều nhất trong các đối tác thương mại nông sản của Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam nhận 57 cảnh báo trong nửa năm, trong khi cùng kỳ năm 2023 là 31 cảnh báo, tăng hơn 80%. Trong số này, TP.HCM chiếm nhiều nhất, với 23 cảnh báo.
Việc EU tăng số lượng cảnh báo khiến tần suất kiểm tra biên giới của nông sản tăng. Hiện Việt Nam còn 4 mặt hàng phải chịu, với tần suất thanh long (30%), ớt (50%), đậu bắp (50%), sầu riêng (10%). “Xu hướng này có thể tăng tiếp nếu chúng ta không có giải pháp kịp thời”, ông Nam nhận định.
Phân tích nguyên nhân về sự tăng bất thường số lượng cảnh báo, ông Nam cho rằng có cả lý do chủ quan lẫn khách quan. Cụ thể: khách quan là xu thế các quốc gia, vùng lãnh thổ gia tăng các biện pháp SPS đối với nông sản thực phẩm và thủy sản nhập khẩu. Xu thế sử dụng các sản phẩm an toàn, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, sản phẩm khai thác hợp lý, sản phẩm hữu cơ, sản phẩm giảm phát thải, sản phẩm dựa trên giá trị, sản phẩm xanh...
Về phía chủ quan, doanh nghiệp xuất khẩu chưa thực sự tuân thủ các quy định của nhà nhập khẩu vì mức MRL (mức giới hạn dư lượng tối đa cho phép) đối với mỗi hoạt chất của mỗi nước là khác nhau. Việc này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu và am hiểu khoa học, kỹ thuật. Ngoài ra, theo thói quen từ trước, người sản xuất ở một số nơi còn chưa có biện pháp, kế hoạch sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, phân bón không đúng hướng dẫn. Đơn cử như khảo sát tại Thừa Thiên - Huế năm 2020 cho thấy, 95% hộ nuôi tôm sử dụng kháng sinh.
Bên cạnh đó, trách nhiệm kiểm tra, giám sát cũng là một lý do khiến số lượng cảnh báo tăng. Đại diện Văn phòng SPS Việt Nam cho rằng tỷ lệ giám sát mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói chưa đạt. Ví dụ sầu riêng chỉ giám sát 52% vùng trồng và 47% cơ sở đóng gói. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định và chế tài đủ mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm về an toàn thực phẩm.
Về phía ngành hàng, bà Hoàng Thị Liên - Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam – cho biết, với số liệu về những lô hàng bị cảnh báo trong ngành hàng gia vị, bà Liên chỉ ra 3 vấn đề mà ngành hàng này đang gặp phải khi xuất khẩu sang thị trường EU như chỉ số chỉ tiêu MRL, dư lượng thuốc, vi sinh vật, kim loại nặng… “Cần có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa cơ quan quản lý đầu mối, doanh nghiệp, hiệp hội để xử lý các vấn đề như lô hàng bị trả lại, khó khăn của doanh nghiệp liên quan đến biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS)….”, bà Liên đề xuất.
Trước những tồn tại của ngành hàng hồ tiêu nói riêng và gia vị nói chung, bà Hoàng Thị Liên khuyến nghị các doanh nghiệp trong lĩnh vực, bên cạnh việc theo dõi, cập nhật thông tin trên các website của cơ quan quản lý dữ liệu Nhà nước cũng cần quan tâm đến website của SPS từ EU để cập nhật thông tin về mọi mặt hàng. Từ đó, doanh nghiệp có thể tham khảo các lô hàng có cùng lợi thế cạnh tranh từ các nước bị cảnh báo để rút kinh nghiệm.
Chuẩn hóa từ khâu nguyên liệu đầu vào
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Hoa, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (NAFIQPM), EU có yêu cầu cao về an toàn thực phẩm, bao gồm cả thủy sản nhập khẩu, và đòi hỏi chứng thư và kiểm soát theo cả chuỗi sản xuất. Sản phẩm cá ngừ ngâm trong nước muối chỉ được sử dụng cho công nghiệp đồ hộp. Quy định của EU thủy sản nuôi phải được xây dựng, triển khai và công nhận Chương trình giám sát quốc gia về tồn dư hóa chất kháng sinh (HCKS). Sản phẩm nhuyễn thể hai mảnh phải có Chương trình giám sát an toàn vệ sinh vùng thu hoạch và được công nhận.
Hàng năm, cơ quan thẩm quyền nước xuất khẩu phải báo cáo EU về kết quả triển khai chương trình và định kỳ bị thanh tra. EU yêu cầu lập danh sách riêng cho các cơ sở sản xuất đùi ếch, ốc, và gelatin/collagen từ nguyên liệu thủy sản, và các cơ sở trong chuỗi sản xuất từ thu mua, sơ chế, kho lạnh, chế biến, tàu cấp đông đến tàu chế biến phải có trong danh sách này. Các quy định về chống khai thác IUU cũng phải được tuân thủ nghiêm ngặt.
Vừa qua, Thủ tướng phê duyệt đề án nâng cao hiệu thực thi SPS. Song song với hoạt động triển khai đề án, ông Nam kêu gọi sự vào cuộc đồng bộ của vùng trồng, vùng nuôi; doanh nghiệp, cơ sở đóng gói, chế biến; hiệp hội ngành hàng; cơ quan quản lý và địa phương.
“Không cách nào khác phải tăng cường liên kết theo hướng đồng quản lý an toàn thực phẩm, chất lượng, góp phần giúp chuẩn hóa ngay từ nguyên liệu đầu vào. Chỉ khi nào từng khâu làm tròn trách nhiệm của mình, nền nông nghiệp Việt Nam mới thoát cảnh e dè trước những thay đổi của thị trường nhập khẩu”, ông Nam nhấn mạnh. Theo ông Nam, các giải pháp được đề cập tới bao gồm: hành động của vùng trồng vùng nuôi, hành động của doanh nghiệp, cơ sở đóng gói, sơ chế, chế biến, hành động của các hiệp hội, ngành hàng và hành động của cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý địa phương.
Các chuyên gia nhận định, trong thời gian tới, cần có sự nỗ lực phối hợp giữa các cơ quan ban ngành địa phương và trung ương cũng như các hiệp hội ngành hàng trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp liên quan đến hoạt động đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, tuân thủ quy định của các thị trường, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm...
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Henry Bùi, Giám đốc Công ty TNHH MTV khoa học công nghệ Hoàn Vũ, khuyến cáo khi đi vào những thị trường khó tính, để tránh bị cảnh báo, các doanh nghiệp cần có những sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, có quy trình quản lý, kiểm tra rất kỹ. Ngoài ra, doanh nghiệp cần tìm được đối tác có năng lực kiểm định để đưa hàng xuất khẩu vào một cách thành công.
Nhằm đáp ứng quy định an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật khi xuất khẩu nông sản thực phẩm, TS. Ngô Xuân Nam, Văn phòng SPS Việt Nam, khuyến nghị vùng trồng, vùng nuôi cần tuân thủ các quy định của Việt Nam về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh; Tuân thủ và cập nhật biện pháp về SPS của thị trường nhập khẩu. Tăng cường liên kết các vùng nguyên liệu, cơ sở đóng gói, sơ chế, chế biến; tham gia các hiệp hội ngành hàng để cập nhật thông tin thị trường và chia sẻ các vấn đề liên quan; Ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, chuyển đổi mô hình canh tác phù hợp với xu thế; Áp dụng hình thức nuôi trồng có chứng chận: VietGAP, GlobalGAP; Thực hiện nghiêm việc giám sát nội bộ, lưu trữ hồ sơ truy xuất nguồn gốc…