Ngành công nghiệp ngành hóa dược trong nước đang 'thiếu' gì?

Theo 'Chương trình phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045', năm 2045, tăng trưởng sản xuất công nghiệp ngành hóa dược đạt 8-11%/năm.

Chương trình phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 hướng đến mục tiêu nâng dần tỷ lệ sản xuất và sử dụng nguyên liệu làm thuốc trong nước và thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm hóa dược.

Phấn đấu đạt 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc

Mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký Quyết định 270/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" (Chương trình).

Theo Chương trình, đến năm 2030, phấn đấu đạt 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc; đáp ứng 50% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thực phẩm chức năng và dược mỹ phẩm trong nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu một số sản phẩm hóa dược thiên nhiên (dược chất, cao định lượng, tinh dầu giàu hoạt chất) hơn 10%/năm.

Theo “Chương trình phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045", năm 2045, tăng trưởng sản xuất công nghiệp ngành hóa dược đạt 8-11%/năm

Theo “Chương trình phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045", năm 2045, tăng trưởng sản xuất công nghiệp ngành hóa dược đạt 8-11%/năm

Đến năm 2045, công nghiệp hóa dược của Việt Nam trở thành ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại, có sức cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị ngành dược phẩm toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp ngành hóa dược đạt 8 - 11%/năm.

Chương trình cũng khuyến khích doanh nghiệp trong nước và tập đoàn dược phẩm đa quốc gia đầu tư sản xuất hóa dược theo phương pháp tổng hợp hóa học và sinh tổng hợp hóa học. Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam phát triển chuỗi giá trị hóa dược thiên nhiên từ nuôi trồng, khai thác đến sản xuất và phân phối.

Đồng thời, xây dựng chính sách đầu tư sản xuất nguyên liệu hóa học thiết yếu, bao gồm hóa chất cơ bản và hợp chất từ dầu mỏ phục vụ ngành hóa dược; cập nhật, hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đầu tư, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu.

Bên cạnh đó, Chương trình có nhiệm vụ thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Trong đó, triển khai các nhiệm vụ khoa học - công nghệ trọng điểm nhằm phát triển sản phẩm hóa dược chất lượng cao, có khả năng thay thế hàng nhập khẩu; khuyến khích doanh nghiệp dược trích lập quỹ phát triển khoa học - công nghệ theo quy định.

Đánh giá về công nghiệp hóa dược trong nước, ông Hoàng Quốc Lâm - Phó Cục trưởng Cục Hóa chất (Bộ Công Thương) nhận định: Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp dược trong nước đều sản xuất các loại thuốc thông thường, phổ biến trên thị trường như một số loại kháng sinh, giảm đau, hạ sốt, thực phẩm bảo vệ sức khỏe…. trong khi các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị có yêu cầu kỹ thuật bào chế hiện đại chưa sản xuất được.

Theo phân loại của UNIDO (Tổ chức phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc), công nghiệp dược của Việt Nam được xếp loại ở mức 3/5, nghĩa là “công nghiệp dược nội địa sản xuất đa số thành phẩm từ nguyên liệu nhập”. Còn theo phân loại của WHO thì công nghiệp dược Việt Nam mới ở gần cấp độ 3 (bao gồm 4 mức) “có công nghiệp dược nội địa; có sản xuất thuốc generic; xuất khẩu được một số dược phẩm”.

Hiện hoạt động bào chế thuốc mới đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu thuốc tính theo số lượng và 50% tính theo giá trị. Song sử dụng nguyên liệu nhập khẩu là chủ yếu, nguồn nguyên liệu trong nước chỉ mới đáp ứng được một phần nhỏ cho nhu cầu sản xuất thuốc (khoảng 5,2% cho thuốc tân dược và khoảng 20% cho thuốc đông dược).

Cục Hóa chất cũng cho biết, do công nghiệp hóa dược chưa phát triển và sản phẩm của ngành chưa cạnh tranh được với sản phẩm của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ nên phần lớn nguyên liệu sử dụng để bào chế thuốc và sản xuất các sản phẩm bảo vệ sức khỏe khác đều phải nhập khẩu.

Thị trường dược Việt Nam vẫn là "sân chơi" của các doanh nghiệp nước ngoài

Có một thực tế, các doanh nghiệp cho rằng, đa số nhà cung cấp dược phẩm trong nước thiếu nguồn lực để khai thác thị trường nội địa. Vì vậy, việc cung cấp sản phẩm dược phẩm cho nhu cầu của người dân là rất khó đạt được nếu không có những phát triển đột phá.

Các công ty dược trong nước hiện nay chủ yếu tập trung sản xuất các loại thuốc generic có giá trị thấp, giá rẻ, khả năng cạnh tranh kém, dẫn đến tình trạng vừa phải cạnh tranh với các loại thuốc generic nhập khẩu, vừa cạnh tranh nội bộ ngành. Do đó, tồn tại tình trạng sản xuất chồng chéo, tranh giành phân khúc thị trường.

Bên cạnh đó câu chuyện tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm đột phá… làm khó doanh nghiệp nội địa. Ngay cả ngành công nghiệp tạo ra nguyên liệu hoạt chất ở Việt Nam vẫn chưa quá phát triển.

Đại diện phía doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước, ông Ngô Anh Ngọc - CEO Công ty cổ phần PharmaDi nhận định, người tiêu dùng vẫn lựa chọn hàng nhập khẩu dù có giá cao hơn so với hàng Việt. Điều này đã khiến cho thị trường dược Việt Nam vẫn còn là “sân chơi” của các doanh nghiệp dược ở nước ngoài”.

Do đó, cần tạo một môi trường pháp lý thông thoáng, có cơ chế khuyến khích để doanh nghiệp có thể tận dụng các tiềm năng ở thị trường nội địa nhằm cùng nhau phát triển.

Hoàn thiện cơ chế chính sách kết hợp ưu đãi cho doanh nghiệp

Để thực hiện được mục tiêu của Chương trình, cũng như hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất hóa dược trong nước, Cục Hóa chất đề xuất: Chính phủ, Bộ, ngành cần xây dựng chương trình nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ. Đồng thời áp dụng cơ chế ưu đãi, hỗ trợ ở mức cao đối với một số hoạt động như nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ mới, công nghệ cốt lõi, công nghệ sản xuất các sản phẩm hóa dược có giá trị cao và một số hoạt động khác có tính chất đột phá nhằm phát triển ngành công nghiệp hóa dược

Ngoài ra, để phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh, Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ, từ đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển (R&D), đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện quản lý chất lượng, đến khuyến khích đầu tư nước ngoài và tăng cường hợp tác quốc tế.

Liên quan đến các giải pháp về chính sách, Cục Hóa chất cũng đề xuất đưa các sản phẩm sử dụng nguyên liệu thuốc sản xuất trong nước và danh mục thuốc bảo hiểm y tế. Ưu tiên đấu thầu thuốc vào bệnh viện đối với thuốc sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Đồng thời, tạo điều liện thuận lợi về trình tự, thủ tục đăng ký lưu hành thuốc đối với thuốc sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước. Kết hợp đầu tư ngân sách nhà nước với hy động các nguồn lực khác cho phát triển công nghiệp hóa dược.

PGS.TS Lê Văn Truyền, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế cho rằng, để hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược, cần có thêm cơ chế đột phá phát triển công nghiệp dược, phải cơ cấu lại nền công nghiệp dược để sản xuất trong nước phát triển vững chắc, giảm phụ thuộc vào bên ngoài.

Đồng quan điểm, bà Đỗ Thanh Hà, Phó trưởng phòng Phát triển Công nghiệp hóa chất (Cục Hóa chất) cũng chia sẻ: Cần đẩy mạnh quá trình xây dựng ngành công nghiệp hóa dược trên cơ sở hình thành và phát triển bền vững các doanh nghiệp hóa dược thuộc mọi thành phần kinh tế; có cơ chế, chính sách cụ thể ưu đãi đặc biệt cho đầu tư sản xuấ hóa dược, nhất là dược chất để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển ngành công nghiệp hóa dược.

Đồng thời, đẩy nhanh thủ tục chuyển giao và đổi mới công nghệ, dây chuyền máy móc thiết bị; ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại để sản xuất các sản phẩm hóa dược có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

Hiện nay, ngành dược phẩm Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với mức tăng trưởng trung bình hai con số, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong nước và các tập đoàn dược lớn quốc tế. Tổng giá trị thị trường dược phẩm Việt Nam tăng từ 2,7 tỷ USD năm 2015 lên 7 tỷ USD năm 2025 và dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2026. Cả nước có hơn 238 nhà máy sản xuất thuốc đạt chuẩn WHO-GMP, 17 nhà máy sản xuất thuốc đạt chuẩn EU-GMP, trên 5.000 cơ sở bán buôn thuốc và trên 62.000 cơ sở bán lẻ.

Nguyễn Duyên

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/nganh-cong-nghiep-nganh-hoa-duoc-trong-nuoc-dang-thieu-gi-38557.html
Zalo