Neo đậu hồn quê

“Tôi về tìm lại tuổi thơ. Tìm trong câu hát ầu ơ ví dầu. Tìm về đồng ruộng nương dâu. Dòng sông bến nước cây cầu gốc đa”… những câu thơ tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm cứ tự nhiên bật ra khi đi qua những miền quê còn lưu giữ đậm nét cổ xưa. Quê hương, 2 tiếng thiêng liêng, ai đi xa cũng thương, cũng nhớ. Nhớ thảm lúa rực vàng chiều hè lộng gió. Nhớ cây cầu vắt vẻo trước ngõ nhà, sân đình rộn tiếng nói cười vào những ngày làng có hội hay đêm trăng sáng. Nhớ gốc đa đầu làng mẹ tiễn anh khi nhập ngũ, bến sông quê tắm mát suốt thời vụng dại… Quê hương lưu giữ hồn người, người níu lấy hồn quê rộng dài.

“Tôi về tìm lại tuổi thơ. Tìm trong câu hát ầu ơ ví dầu. Tìm về đồng ruộng nương dâu. Dòng sông bến nước cây cầu gốc đa”… những câu thơ tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm cứ tự nhiên bật ra khi đi qua những miền quê còn lưu giữ đậm nét cổ xưa. Quê hương, 2 tiếng thiêng liêng, ai đi xa cũng thương, cũng nhớ. Nhớ thảm lúa rực vàng chiều hè lộng gió. Nhớ cây cầu vắt vẻo trước ngõ nhà, sân đình rộn tiếng nói cười vào những ngày làng có hội hay đêm trăng sáng. Nhớ gốc đa đầu làng mẹ tiễn anh khi nhập ngũ, bến sông quê tắm mát suốt thời vụng dại… Quê hương lưu giữ hồn người, người níu lấy hồn quê rộng dài.

“Bồ Đề đại lão” có tuổi đời trên 800 năm được coi là biểu tượng của sự trường thọ, khỏe mạnh, đại diện cho tính cách kiên định, nhẫn nại của người dân làng Dịch Diệp, xã Trực Chính (Trực Ninh).

“Bồ Đề đại lão” có tuổi đời trên 800 năm được coi là biểu tượng của sự trường thọ, khỏe mạnh, đại diện cho tính cách kiên định, nhẫn nại của người dân làng Dịch Diệp, xã Trực Chính (Trực Ninh).

Khi mưa xuân giăng giăng đầy các lối ngõ, chúng tôi có dịp về các vùng quê trên địa bàn tỉnh. Làng xóm dài rộng, yên ả, mướt xanh bóng cau, bóng dừa. Đi sâu vào các thôn xóm, tiếng cười nói rộn ràng, thoảng trong gió mùi hương trầm thơm ấm, gợi không khí tết. Mưa rơi nặng hạt, khách phương xa dừng chân ghé thăm Dịch Diệp trang, xã Trực Chính (Trực Ninh). Đây là vùng đất hạ lưu sông Hồng thuộc huyện Tây Chân, trấn Sơn Nam, sau là phủ Thiên Trường. Làng được xây dựng theo phong cách chung của làng Việt cổ, đến nay vẫn giữ được những “biểu tượng” đặc sắc của làng quê như: đền, chùa, sân đình, cổng làng, giếng nước, cây đa, cây đề cổ thụ, nghề dệt có truyền thống hàng trăm năm… Dịch Diệp có hình dáng như một con tàu mà mũi tàu chính là cổng nam, còn đuôi tàu là cổng tây. Xưa kia, từ đầu đến cuối làng đều có các cổng làng. Hiện nay, làng chỉ còn cổng phía nam nằm ở đầu Cầu Cuốn, được xây dựng từ năm 1864. Theo sử sách của làng ghi lại, cổng xây bằng gạch, cao khoảng 5m, rộng 2,5m. Trên mái đổ sang gạch (xếp cốt pha, đặt gạch, chèn mạch). Năm 2001, cầu bị xuống cấp, nhiều phiến đá to, theo thời gian bị dòng nước làm thay đổi vị trí. Vì vậy, nhân dân trong làng quyết tâm sửa chữa lại cầu. Trước cổng làng là đình làng lợp mái bổi. Đình từng bị giặc Pháp đốt, sau đó được khôi phục trở lại, hiện nay là nhà văn hóa thôn Dịch Diệp.

Trải qua hàng trăm năm, cổng làng phía nam của làng Dịch Diệp, xã Trực Chính (Trực Ninh) vẫn được người dân, chính quyền địa phương tôn tạo, giữ gìn.

Trải qua hàng trăm năm, cổng làng phía nam của làng Dịch Diệp, xã Trực Chính (Trực Ninh) vẫn được người dân, chính quyền địa phương tôn tạo, giữ gìn.

Trước đình có một sân rộng 800m2, xưa làng dùng để hội họp, bàn công việc lớn. Sân đình còn là nơi tập kết quân, là nơi để ngày mười rằm tháng Giêng, làng xã tổ chức hội yến lão cho các bậc cao niên. Trong đình hiện còn 1 bức hoành phi do Vua Tự Đức ban tặng có đề 4 chữ “Thiện tục khả phong”. Gắn liền với cổng làng, với cây Cầu Cuốn, nhiều ông già, bà cả Dịch Diệp vẫn còn giữ thêm trong ký ức của mình về một dòng sông Dịch trong xanh. Xưa kia, mọi sinh hoạt ăn uống, tắm rửa của làng đều gắn với dòng sông này. Trước khi đường thôn chưa được mở rộng, lòng sông còn rộng lớn lắm. Dân các vùng lân cận như An Lãng, Trực Phương, làng Kênh… đi lại bằng thuyền đều ghé bến Cầu Cuốn. Ngoài hệ thống kiến trúc vật thể như bến nước, sân đình, làng Dịch Diệp may mắn còn giữ được cây bồ đề cổ thụ khoảng trên 900 năm tuổi, người làng gọi đó là “Bồ Đề đại lão”. Theo các bậc cao niên trong làng, cây bồ đề cổ thụ không những chỉ là biểu tượng của sự trường thọ, khỏe mạnh mà còn “đại diện” cho tính cách kiên định, nhẫn nại của người Dịch Diệp.

Cổng làng Phú Đa, xã Hiển Khánh (Vụ Bản).

Cổng làng Phú Đa, xã Hiển Khánh (Vụ Bản).

Không chỉ có Dịch Diệp trang, một số làng quê trên địa bàn tỉnh vẫn giữ gìn được “hồn cốt làng” qua hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình… Cây đa, đó là biểu tượng của sự hiền hòa, yên bình, trường thọ. Khách phương xa về làng lỡ đoạn đường thường chọn gốc đa hoặc một cây cổ thụ xanh mát nào đó ngơi nghỉ sau chuyến đi dài mệt mỏi. Mùa vụ tất bật, thợ cày, thợ cấy, các bô lão, con trẻ trong làng cũng chọn gốc đa nghỉ chân, hóng mát. Dưới tán cây rộng lớn, những câu chuyện trong xóm, ngoài làng được người làng kể rôm rả, truyền tai nhau. Cũng dưới bóng những cây cổ thụ này, sợi dây cố kết cộng đồng trong làng xã Việt Nam tiếp tục nối dài.

Giếng cổ có tuổi đời hàng trăm năm tại Khu di tích lịch sử Đền Nữ tướng Đào Quý Nương, xã Quang Trung (Vụ Bản).

Giếng cổ có tuổi đời hàng trăm năm tại Khu di tích lịch sử Đền Nữ tướng Đào Quý Nương, xã Quang Trung (Vụ Bản).

Cây đa gần bến nước. Bến nước, đó có thể là một bến sông. Bến nước cũng có thể là một cái ao công cộng được viền bằng gạch nung, đá ong hoặc tường bao quanh ghép đá, cũng có thể là một ao sen tự nhiên ngay giữa làng… Vào những ngày làng mở hội, bến nước còn là địa điểm diễn ra các lễ hội của cư dân nông nghiệp lúa nước như bơi chải, rối nước, bơi lội… Đặc biệt, sân đình, là trung tâm của làng xã Việt Nam. Nói đến sân đình, thì phải mô tả cụ thể, sân là khoảng không, là “quảng trường” của đình. Sân có thể tụ hội tất cả dân làng và hơn thế nữa. Sân vừa là mặt tiền, vừa là “quảng trường” của đình làng. Đình làng, chỉ cần nhắc đến 2 chữ đó thôi, đủ gợi lên bao kỷ niệm, bao sự trân trọng, nhớ thương của người làng. Đình làng cũng chính là “trụ sở” của làng. Đình làng là nơi các vị bô lão đàm đạo bàn việc của làng. Là nơi ra các “nghị quyết” sao cho làng xã yên vui thịnh vượng, con trẻ học hành phương trưởng… Sau mỗi mùa bội thu hay khi đã hoàn thành một công việc trọng đại, dân làng lại tập trung ở sân đình chung vui.

Một cây cầu cổ ở xã Hải Hưng (Hải Hậu).

Một cây cầu cổ ở xã Hải Hưng (Hải Hậu).

Theo thời gian, sinh hoạt cộng đồng trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống mỗi người Việt. “Hôm qua tát nước đầu đình. Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”. Câu ca dao tình tứ, ý nhị sống mãi với thời gian được dân gian “khai sinh”, lấy cảm hứng từ chính những cuộc hẹn hò của các đôi trai gái tại sân đình. Tùy điều kiện kinh tế, diện tích đất mà mỗi làng có thể xây dựng đình to hay nhỏ. Kích thước có thể khác nhau, tuy nhiên, điểm giống nhau ở những đình làng là nơi tôn vinh các giá trị văn hóa được mọi người công nhận; là biểu tượng, là cốt cách, là văn hóa của làng xã Việt Nam.

Khuôn viên Đền Gin, xã Nam Dương (Nam Trực) là nơi diễn ra nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc.

Khuôn viên Đền Gin, xã Nam Dương (Nam Trực) là nơi diễn ra nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc.

Quá trình xây dựng nông thôn mới đang diễn ra mạnh mẽ, sôi động trên địa bàn tỉnh, tác động sâu sắc, toàn diện đến các làng quê. Tuy nhiên, khắp 9 huyện, thành phố vẫn có nhiều làng xã gìn giữ được những “biểu tượng”, “hồn cốt” của làng quê Việt bao gồm: tên làng, các công trình đền chùa, miếu mạo, cây đa, bến nước, sân đình, phương ngữ của mỗi vùng miền… Nhiều làng chỉ cần nhắc đến tên đã thấy gợi thương, gợi nhớ như: Phù Long, phường Nam Phong (thành phố Nam Định), Thức Vụ, xã Yên Cường (Ý Yên), Dịch Diệp, xã Trực Chính (Trực Ninh), Hải Lạng, xã Đồng Thịnh (Nghĩa Hưng), Hành Thiện, xã Xuân Hồng (Xuân Trường), Quả Linh, Bách Cốc, xã Thành Lợi (Vụ Bản)… Trong những ngôi làng này, dễ dàng bắt gặp mái đình cong cong, chiếc giếng làng nước trong văn vắt, cây đa, cây bồ đề cổ thụ dày lá, vững chãi trước bao biến thiên… Để đi xa về gần, không chỉ người làng xã mà cả khách thập phương đều tự hào “di sản” quê hương.

Cánh đồng làng yên bình ở xã Trà Lũ (Xuân Trường).

Cánh đồng làng yên bình ở xã Trà Lũ (Xuân Trường).

Trong bài thơ “Bài học đầu cho con”, nhà thơ Đỗ Trung Quân từng viết: “Quê hương là gì hở mẹ. Mà cô giáo dạy phải yêu. Quê hương là gì hở mẹ. Ai đi xa cũng nhớ nhiều”… Có lẽ trong bài học đầu đời của mỗi con trẻ sinh ra và lớn lên trên dải đất mến thương hình chữ S đều được cha mẹ dạy về tình yêu quê hương, đất nước. Tình yêu ấy bắt nguồn từ những thứ rất giản dị, mộc mạc của làng quê, trong đó có hình ảnh cây đa, bến nước, con đò. Để rồi, gieo mãi trong lòng mỗi người Việt niềm yêu nhớ: “Cây đa giếng nước sân đình. Trăm năm đa đứng một mình giữa sân. Hè về rủ trẻ quây quần. Nô đùa hò hát vang ngân tiếng cười”.

Bài và ảnh: Hoa Xuân

Nguồn Nam Định: https://baonamdinh.vn/bao-tet-nam-dinh-online/202501/neo-dau-hon-que-d8c48e2/
Zalo