Nền tảng để hàng Việt vươn xa
Xác định rõ xuất xứ hàng hóa không chỉ quan trọng với xuất nhập khẩu mà còn cần thiết cho thị trường nội địa. Bộ Công Thương đang gấp rút hoàn thiện khung tiêu chí thống nhất, nhằm bảo vệ người tiêu dùng, tạo công bằng cho DN và nâng uy tín hàng Việt.
Hoàn thiện khung tiêu chí xuất xứ:

Ảnh minh họa.
Khoảng trống cần lấp đầy
Trong tiến trình hội nhập sâu rộng, việc xác định rõ xuất xứ hàng hóa ngày càng trở nên cấp thiết. Không chỉ để đáp ứng yêu cầu từ các hiệp định thương mại tự do (FTA), mà quan trọng hơn là để minh bạch hóa thị trường nội địa, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo sự cạnh tranh công bằng cho DN. Trong nhiều năm qua, quy định về xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam chủ yếu phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với hàng hóa lưu thông trong nước, một bộ tiêu chí pháp lý rõ ràng vẫn chưa hiện hữu. Khoảng trống này dẫn tới không ít hệ lụy. Người tiêu dùng khó nhận diện nguồn gốc sản phẩm, còn DN sản xuất chân chính phải cạnh tranh gay gắt với những mặt hàng “đội lốt” hàng Việt.
Thực tế, nhiều vụ gian lận thương mại đã bị phanh phui, từ hàng gia dụng, thời trang cho đến thực phẩm. Không ít sản phẩm gắn nhãn “Made in Vietnam” nhưng thực chất chỉ qua vài công đoạn đơn giản như đóng gói hay dán nhãn tại Việt Nam. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho DN nội địa mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín thương hiệu Quốc gia. Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Công Thương đang xây dựng khung tiêu chí xác định xuất xứ hàng hóa lưu thông trong nội địa. Theo Phó Trưởng phòng Xuất xứ hàng hóa (Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương), Nguyễn Hoàng Hà, khung tiêu chí sẽ được thiết kế dựa trên chuẩn mực quốc tế nhưng có điều chỉnh để phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Bộ khung dự kiến bao gồm 6 nguyên tắc cốt lõi: Xuất xứ thuần túy: Sản phẩm được tạo ra hoàn toàn tại Việt Nam, như nông sản, thủy sản, chăn nuôi hay tái chế. Nguyên liệu nội địa: Sản phẩm được chế tạo chủ yếu từ nguyên liệu có xuất xứ trong nước. Gia công, chế biến làm thay đổi bản chất: Nguyên liệu nhập khẩu nhưng công đoạn sản xuất cuối tại Việt Nam làm thay đổi mã HS hoặc tạo ra giá trị gia tăng nội địa tối thiểu 30%. Loại trừ công đoạn đơn giản: Các công đoạn như đóng gói, trộn, dán nhãn, lắp ráp sơ sài… không được coi là sản xuất.
Nguyên tắc De Minimis: Nếu tỷ lệ nguyên liệu không đáp ứng quy tắc chuyển đổi mã HS chiếm không quá 15% giá trị xuất xưởng, sản phẩm vẫn có thể coi là hàng Việt. Nguyên tắc giá trị gia tăng nội địa: Sản phẩm phải đạt tỷ lệ nhất định về hàm lượng giá trị nội địa để được công nhận. Khung nguyên tắc này được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng minh bạch, thống nhất, giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện hàng Việt chính hiệu, đồng thời củng cố vị thế thương hiệu “Made in Vietnam” ngay trên sân nhà.
Những thách thức trong quá trình áp dụng
Tuy vậy, việc hiện thực hóa bộ tiêu chí không hề đơn giản. ThS. Bùi Thị Thùy Dương, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhấn mạnh rằng, mỗi ngành hàng có đặc điểm sản xuất và cấu thành giá trị khác nhau. Vì vậy, nếu áp dụng một ngưỡng cứng như 30% hay 40% nội địa hóa thì sẽ không phản ánh đúng thực tế. Khó khăn lớn nữa nằm ở khâu kiểm tra, xác minh. Việc đo lường tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa đòi hỏi DN có hệ thống kế toán minh bạch, chi tiết, điều mà nhiều DN vừa và nhỏ chưa đáp ứng được. Cơ quan quản lý cũng sẽ gặp thách thức khi phải kiểm tra các chỉ số kỹ thuật như tỷ lệ giá trị, chuyển đổi mã HS, nguồn gốc nguyên liệu. Nếu thiếu hướng dẫn cụ thể, có thể dẫn tới cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các địa phương, gây ra khiếu kiện phức tạp.
Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Đậu Anh Tuấn cũng chỉ rõ một rào cản khác: chi phí tuân thủ. DN phải bỏ ra nguồn lực lớn để giải trình quy trình sản xuất, chứng minh xuất xứ. Nếu quy định được áp dụng quá nhanh và cứng nhắc, có thể tạo áp lực nặng nề, đặc biệt cho các DN nhỏ. Theo các chuyên gia, để tránh gây “sốc” cho cộng đồng DN, cần xây dựng lộ trình phù hợp. Ông Đậu Anh Tuấn gợi ý nên bắt đầu từ việc xác định xuất xứ với những hàng hóa được sản xuất hoàn toàn tại Việt Nam, vốn dễ nhận diện và minh bạch. Sau đó, từng bước yêu cầu DN công khai tỷ lệ nội địa hóa. Cách tiếp cận theo lộ trình, mềm dẻo và linh hoạt sẽ tạo điều kiện để DN vừa thích ứng, vừa dần nâng cao năng lực quản lý sản xuất. Đây cũng là cơ hội thúc đẩy các DN cải thiện hệ thống kế toán, minh bạch chuỗi cung ứng và nâng cao trách nhiệm với sản phẩm.
Dưới góc nhìn DN, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DN nhỏ và vừa Hà Nội, Mạc Quốc Anh, bày tỏ quan ngại nếu quy trình phức tạp và khắt khe, DN nhỏ khó có thể thực hiện. Do đó, tiêu chí cần được thiết kế vừa chặt chẽ, vừa khả thi, đảm bảo tính công bằng nhưng không gây cản trở sản xuất. Một số ý kiến khác nhấn mạnh, muốn khung tiêu chí đi vào cuộc sống, trước tiên phải tham vấn rộng rãi cộng đồng DN. Chỉ khi phản ánh đúng thực tiễn sản xuất của các ngành, bộ khung mới có thể phát huy hiệu quả.
Đồng thời, thủ tục chứng nhận cần đơn giản, chi phí hợp lý và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số. Việc áp dụng các giải pháp công nghệ, như truy xuất nguồn gốc bằng mã QR hay nền tảng số tích hợp, sẽ giúp minh bạch hóa thông tin xuất xứ, đồng thời giảm tải cho cơ quan quản lý. Đây cũng là hướng đi phù hợp với xu thế thương mại hiện đại, đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của người tiêu dùng.
Xây dựng khung tiêu chí xuất xứ hàng hóa cho thị trường nội địa không chỉ là động thái pháp lý, mà còn là chiến lược dài hạn để nâng tầm thương hiệu Quốc gia. Khi được áp dụng đồng bộ, bộ khung sẽ giúp hàng Việt minh bạch về nguồn gốc, “sạch” về xuất xứ và công bằng trong cạnh tranh. Quan trọng hơn, nó góp phần củng cố niềm tin bền vững của người tiêu dùng đối với sản phẩm Việt Nam. Một khi người tiêu dùng đặt trọn niềm tin vào hàng Việt, đó sẽ là động lực to lớn để DN nâng cao chất lượng, đầu tư đổi mới công nghệ, từ đó gia tăng khả năng cạnh tranh không chỉ trên thị trường nội địa mà cả quốc tế.
Chúng ta cần đơn giản hóa thủ tục chứng nhận, chi phí hợp lý, đồng thời tích hợp công nghệ số vào toàn bộ quy trình. Khi đó, khung tiêu chí sẽ không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là động lực để DN đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Trương Văn Cẩm