Nâng cao năng lực số cho cán bộ nữ ở miền Trung - Tây Nguyên: Cần chiến lược đồng bộ và nhạy cảm giới
Phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam có cuộc trao đổi với PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê xoay quanh kết quả nghiên cứu thực tiễn và những khuyến nghị thiết thực nhằm thu hẹp khoảng cách số cho nữ cán bộ, công chức, viên chức tại các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.
Ảnh minh họa
PV: Thưa PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê, bà có thể chia sẻ bức tranh thực trạng năng lực số của nữ cán bộ, công chức, viên chức tại các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên hiện nay như thế nào?
PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê: Qua khảo sát nhanh thực hiện vào tháng 5 và tháng 6 năm 2024 với 1.089 cán bộ, công chức, viên chức tại ba tỉnh đại diện là Thanh Hóa, Đắk Lắk và Gia Lai, chúng tôi nhận thấy nữ cán bộ, công chức, viên chức nhìn chung với những hiểu biết và thao tác cơ bản để thông tin liên lạc, giao tiếp… thì phụ nữ có trình độ kỹ thuật số hầu như đều đáp ứng yêu cầu xử lý công việc hàng ngày và cũng không khác biệt mấy so với nam giới.
Khi được đòi hỏi ở mức độ cao hơn hay khả năng am hiểu và vận dụng các kỹ năng số chuyên sâu như các hiểu biết về ứng xử trên mạng, về an ninh an toàn mạng, về sáng tạo các nội dung số thì trình độ kỹ thuật số của cả nam và nữ đều giảm xuống, nhưng nữ giới có chiều hướng giảm nhiều hơn so với nam giới.
Cụ thể: tỷ lệ nữ tự đánh giá sử dụng ‘thành thạo’ và ‘rất thành thạo’ các phần mềm văn phòng thông dụng như Word, Excel, PowerPoint luôn thấp hơn nam giới, nhất là khi đòi hỏi ở mức độ chuyên nghiệp.
Ở nhóm kỹ năng sử dụng các phần mềm chuyên biệt phục vụ công việc hành chính công như phần mềm dịch vụ công trực tuyến, một cửa điện tử, phần mềm quản lý văn bản điều hành, tỷ lệ nữ chưa biết sử dụng và chỉ mới ở mức biết sơ cũng cao hơn nam giới.
Không chỉ vậy, các kỹ năng số cần thiết trong đời sống hàng ngày như chuyển khoản qua điện thoại, giao dịch thương mại điện tử, mua sắm xuyên biên giới, giao dịch chứng khoán trực tuyến tỷ lệ nữ giới trả lời ‘không biết làm’ cao hơn nam giới.

PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê phát biểu tại một cuộc hội thảo
Tuy nhiên, có điểm đáng lưu ý là một số thao tác đòi hỏi sự kiên nhẫn tìm hiểu như tính năng Giọng nói để dịch sang ngoại ngữ khác phụ nữ không thua kém nam giới nhiều, hay có chỉ tiêu còn thể hiện trội hơn như Chuyển giọng nói thành chữ viết hoặc nữ giới có tỉ lệ thể hiện muốn học thêm về các phần mềm mới cao hơn nam giới.
Đây là một tín hiệu tích cực cho thấy tiềm năng nâng cao năng lực số cho phụ nữ nếu có chính sách và phương pháp phù hợp.
PV: Bà nhận định thế nào về các nguyên nhân dẫn đến khoảng cách số giữa cán bộ nữ và nam tại các địa phương này?
PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Lê: Khoảng cách số giữa nam và nữ không phải là vấn đề mới mà là thực trạng tồn tại trên toàn cầu, kể cả ở những nước có chỉ số bình đẳng giới cao như Na Uy hay các nước Bắc Âu cũng cho rằng sự mất cân bằng giới tính trong lĩnh vực ICT dường như đặc biệt khó cải thiện.
Có nhiều nguyên nhân đã được các nghiên cứu trước đây chỉ ra. Trước hết, kỳ vọng xã hội thấp về sự quan tâm của phụ nữ đối với công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) dẫn đến họ ít được khuyến khích học tập, ít có cơ hội tiếp cận các chương trình đào tạo về kỹ năng số.
Thứ hai là nhà tuyển dụng cũng có những e ngại nhất định khi tuyển dụng nữ vào các vị trí cần trình độ CNTT. Thứ ba, trách nhiệm gia đình, đặc biệt là việc chăm sóc con cái và người thân, khiến quỹ thời gian của nữ cán bộ, công chức, viên chức eo hẹp, khó tham gia các khóa học hoặc tự học để nâng cao trình độ và kỹ năng.
Thứ tư, việc thiết kế nhiều phần mềm chuyên dụng được thiết kế thiên về kỹ thuật, có vẻ như chưa tính đến yếu tố thân thiện giới.

Ảnh minh họa
Trong bối cảnh Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên, nơi điều kiện hạ tầng số còn hạn chế, các rào cản với phụ nữ có lẽ là lớn hơn nhiều. Khảo sát cho thấy nhiều nữ cán bộ, công chức, viên chức gặp khó khăn trong việc xử lý các thao tác nâng cao, các phần mềm phức tạp hoặc khi các thiết bị kỹ thuật số khi gặp sự cố, như nâng cấp phần mềm, xử lý virus, cài đặt bảo mật.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy nam giới có xu hướng tự tin hơn trong các thao tác này, trong khi tỷ lệ nữ trả lời "không biết" hoặc "muốn biết nhưng chưa học được" cao hơn đáng kể.
Cuối cùng, khoảng cách số còn xuất hiện ở các chức danh nghề nghiệp khác nhau. Như trên đã nói, với nhu cầu được đi học thêm thì các lớp học chuyên môn như Phần mềm chuyên dụng, an toàn và bảo mật… thì phụ nữ thường có nhu cầu muốn học cao hơn nam giới, riêng về học các phần mềm quản trị, quản trị từ xa thì tỷ lệ phụ nữ muốn đi học thấp hơn nam giới khá nhiều.
Điều này một phần là do tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo thấp hơn nhiều so với nam giới (ở mẫu khảo sát nữ giới làm lãnh đạo chỉ là 18,5%), nhưng có lẽ một lí do căn bản là những phụ nữ này ưu tiên công việc nào được ở gần gia đình hơn nên họ mặc nhiên không có mấy nhu cầu học lớp học này.
PV: Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn này, bà có thể chia sẻ những nhóm giải pháp mà các địa phương cần triển khai để nâng cao năng lực số cho nữ cán bộ, công chức, viên chức?
PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Lê: Dựa trên kết quả khảo sát và kinh nghiệm nghiên cứu, chúng tôi đề xuất một số nhóm giải pháp cụ thể.
Đầu tiên, chính quyền các cấp cần thường xuyên khảo sát nhu cầu về kỹ năng số theo từng vị trí việc làm cụ thể, phân tách theo nhu cầu chuyên sâu nhưng cũng chú trọng yếu tố giới tính cho người đi học để có cách học và thực hành phù hợp, thiết kế nội dung học dễ tiếp cận, thân thiện với phụ nữ.
Việc trang bị trình độ và kỹ năng số phải làm sao để cán bộ, công chức, viên chức giảm thời gian nhưng lại tăng được hiệu suất làm việc, giúp họ có sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống tốt hơn.
Thứ hai, cần thiết lập một môi trường làm việc thuận lợi, cởi mở và khích lệ nữ cán bộ, công chức, viên chức tự tin học hỏi, ứng dụng CNTT vào các công việc hàng ngày. Các địa phương cần chú trọng xây dựng các bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng và trong môi trường số, coi đó là một trong các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ ba, cần có chính sách khuyến khích các nhà phát triển phần mềm công vụ chú ý đến yếu tố thân thiện giới trong thiết kế giao diện, tính năng sử dụng. Điều này sẽ giúp nữ giới dễ tiếp cận, giảm áp lực khi tham gia môi trường số.
Cuối cùng, qua khảo sát nhiều người cho rằng hạ tầng mạng yếu kém là nguyên nhân cản trở tiếp cận chuyển đổi số do đó cần cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ, tăng cường chất lượng thiết bị làm việc, tốc độ đường truyền internet ở các cơ quan hành chính, nhất là ở những huyện vùng sâu, vùng xa.
PV: Theo bà, việc nâng cao năng lực số cho nữ cán bộ, công chức, viên chức tại các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên có ý nghĩa thế nào đối với phát triển kinh tế - xã hội và chính quyền số của địa phương?
PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Lê: Khi phụ nữ - vốn chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng cán bộ, công chức, viên chức , đặc biệt ở lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội – được trang bị kỹ năng số đầy đủ, họ sẽ tự tin và tham gia tích cực vào quá trình quản lý, vận hành chính quyền số, chuyển đổi số, lan tỏa văn hóa số đến cộng đồng.
Ngoài ra, xóa khoảng cách về hiểu biết số làm quá trình hòa nhập số của cán bộ, công chức, viên chức tốt hơn, sẽ giúp phụ nữ khai thác các cơ hội kinh doanh, tìm kiếm việc làm, học tập online, tham gia thị trường lao động số, từ đó cải thiện thu nhập, nâng cao vị thế, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tôi cho rằng, muốn thực hiện thành công chính quyền số, kinh tế số và xã hội số thì không thể bỏ quên một lực lượng quan trọng là nữ cán bộ, công chức, viên chức. Vì vậy, đầu tư cho năng lực số của họ chính là đầu tư cho bình đẳng xã hội và phát triển bền vững.
PV: Trân trọng cảm ơn chia sẻ của bà!