Nâng cao đào tạo tiến sĩ, chuyên ngành luật tại Việt Nam
Tính đến nay, có 39 cơ sở đào tạo luật trình độ thạc sĩ và 10 cơ sở đào tạo luật có đào tạo trình độ tiến sĩ. Vấn đề đào tạo trình độ tiến sĩ, chuyên ngành luật tại Việt Nam còn nhiều hạn chế.
39 cơ sở đào tạo luật trình độ thạc sĩ và 10 cơ sở đào tạo luật có đào tạo trình độ tiến sĩ
Theo báo cáo của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Quốc hội về đào tạo luật, sau hơn 45 năm phát triển, số lượng các cơ sở đào tạo luật tăng lên đáng kể. Ngày càng nhiều các cơ sở đào tạo tư thục tham gia vào đào tạo luật, trong đó có 28 cơ sở đào tạo luật tư thục trên tổng số 79 cơ sở đào tạo luật cả nước đào tạo đúng ngành (chiếm 35,4%).
Về quy mô đào tạo cử nhân luật, số liệu thống kê 31/12/2023, có 124.169/2.207.100 sinh viên (chiếm khoảng 5,6 tổng sinh viên toàn quốc); Số sinh viên học hệ đại học chính quy chiếm 62,2% so với tổng số sinh viên học cơ sở đào tạo cử nhân luật.
Về đào tạo sau đại học, theo số liệu năm học 2024-2025 có 39 cơ sở đào tạo luật trình độ thạc sĩ và 10 cơ sở đào tạo luật có đào tạo trình độ tiến sĩ.
Hiện tại, chỉ cơ sở đào tạo công lập mới có ngành đào tạo trình độ tiến sĩ và đều là các trường có truyền thống về đào tạo luật. Đối với đào tạo trình độ thạc sĩ sự tham gia của khối ngoài công lập ngày càng tăng, theo thống kê đến 31/12/2023, có 19 cơ sở đào tạo luật ngoài công lập có đào tạo trình độ thạc sĩ (chiếm 48,7%) với quy mô 1.439 học viên, chiếm 17,4% quy mô học viên thạc sĩ luật của cả nước.
Đối với vấn đề đào tạo tiến sĩ, năm 2023, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội đã tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo trình độ tiến sĩ. Mục tiêu giám sát là đánh giá thực trạng công tác đào tạo trình độ tiến sĩ trong nước; xác định rõ nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế; đề xuất, kiến nghị các giải pháp bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ, đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở báo cáo của các bộ, ngành trung ương và hơn 60 cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu được phép đào tạo trình độ tiến sĩ báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo trình độ tiến sĩ; tổ chức khảo sát thực tiễn tại 15 cơ sở ; tổ chức tọa đàm, xin ý kiến các chuyên gia; làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Ủy ban đã có Báo cáo số 2239/BC-UBVHGD15 ngày 12/3/2024 kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo trình độ tiến sĩ.
Tính đến năm 2022, cả nước có 196 cơ sở đào tạo được phép đào tạo trình độ tiến sĩ, tăng 1,66 lần so với năm học 2014-2015 , trong đó có 157 cơ sở giáo dục đại học và 39 viện nghiên cứu, trường của tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang và trường của bộ, ngành.
Hệ thống chính sách, pháp luật về đào tạo trình độ tiến sĩ từng bước được hoàn thiện, đã quy định tương đối toàn diện, đầy đủ những vẫn đề cốt lõi trong hoạt động đào tạo tiến sĩ, tiệm cận với chuẩn mực của khu vực và thế giới, phát huy quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch của các cơ sở đào tạo tiến sĩ.
Các cơ sở đào tạo được đánh giá đã tuân thủ nghiêm túc quy định hiện hành; chủ động xây dựng, điều chỉnh, ban hành các quy chế, quy định về đào tạo tiến sĩ phù hợp với điều kiện thực tiễn tại đơn vị. Đội ngũ giảng viên được quan tâm củng cố, phát triển; trình độ, năng lực ngày càng được nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản đáp ứng yêu cầu; một số nơi được tập trung đầu tư, phát triển theo hướng hiện đại, đạt chuẩn quốc tế.
Quy mô đào tạo trình độ tiến sĩ tiếp tục phát triển. Cơ cấu, lĩnh vực đào tạo tiến sĩ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu. Chất lượng, hiệu quả đào tạo trình độ tiến sĩ ngày càng được nâng lên.
Các cơ sở đào tạo tiến sĩ ở trong nước đã trực tiếp góp phần đào tạo, phát triển nguồn cán bộ khoa học, công nghệ cho đất nước, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Nhiều tiến sĩ được đào tạo trong nước đã và đang giữ vị trí quan trọng về đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý kinh tế, xã hội. Nhiều kết quả nghiên cứu trong quá trình đào tạo tiến sĩ là những công trình có giá trị, đóng góp thiết thực, hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Còn nhiều hạn chế, tồn tại trong việc đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam
Bên cạnh những kết quả đạt được, đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam còn một số hạn chế, tồn tại. Đó là, chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ tiến sĩ chưa đầy đủ, hoàn thiện; chưa có chính sách để ưu tiên, khuyến khích, phát triển các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tốc độ tăng quy mô đào tạo tiến sĩ trong giai đoạn gần đây không ổn định, có những thời điểm giảm. Việc mở rộng quy mô đào tạo của một số cơ sở chưa tương xứng với năng lực và điều kiện bảo đảm chất lượng. Công tác tuyển sinh của một số ngành, lĩnh vực đặc thù, quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gặp khó khăn.
Đối với công tác tuyển sinh, báo cáo của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Quốc hội đánh giá: Luật Giáo dục đại học 2012 đã trao quyền tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học tự xác định chỉ tiêu và chịu trách nhiệm trong công tác tuyển sinh trên cơ sở quy chế tuyển sinh do Bộ GD&ĐT ban hành. Tự chủ đại học đã tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi, tạo thuận lợi cho cơ sở giáo dục đại học chủ động trong việc xây dựng đề án, tổ chức thực hiện tuyển sinh phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn.
Từ năm 2015 đến nay, nhất là từ sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2019 được ban hành và có hiệu lực, công tác tuyển sinh đã có nhiều đổi mới, hoàn thiện và dần đi vào ổn định. Kết quả tuyển sinh tăng trưởng ổn định qua từng năm. Phương thức tuyển sinh được đa dạng hóa.
Việc thực hiện chuyển đổi số trong toàn hệ thống và ở tất cả các khâu trong tuyển sinh đã tạo thuận lợi tối đa cho người học, thí sinh và người dân; đảm bảo khách quan, công bằng, tiết kiệm nguồn lực xã hội. Quy trình tuyển sinh được cải tiến, đảm bảo tính khoa học và hiệu quả.
Thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực trong đào tạo tiến sĩ, khi số lượng, chất lượng nghiên cứu sinh tăng, chất lượng công bố quốc tế tăng, thông qua đào tạo nghiên cứu sinh xếp hạng đại học của Việt Nam cũng tăng đáng kế. Tuy nhiên, từ phân tích các hạn chế, bất cập, các ý kiến cũng cho rằng, cần có giải pháp để “siết” chất lượng đào tạo tiến sĩ, đào tạo luật, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trao đổi cụ thể về vấn đề đào tạo tiến sĩ và đào tạo luật từ góc độ những đóng góp cho sự phát triển của hệ thống đại học, của đất nước trong giai đoạn vừa qua và nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn cho rằng đội ngũ những người làm khoa học chưa bao giờ tiếp cận thế giới được như bây giờ. Đội ngũ tiến sĩ đã có đóng góp cho phát triển đất nước. Đội ngũ tiến sĩ tại các trường đại học có nhiều đóng góp cho chất lượng giáo dục, nếu không có đội ngũ ấy sẽ không có chất lượng giáo dục đại học như hiện nay.
Cũng theo Bộ trưởng, giới hạn của trường đại học không vượt qua được giới hạn của trình độ nghiên cứu khoa học và nền kinh tế. Do đó, câu chuyện nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ là một quá trình, nâng dần cùng nâng cao nền khoa học công nghệ và tăng trưởng kinh tế.