Muôn đời con cháu mãi truyền danh

'Muôn đời con cháu mãi truyền danh' (Tử tử tôn tôn vĩnh bảo truyền) là một câu thơ của vua Minh Mạng viết về sự kiện đúc Cửu Đỉnh. Đây là chín đỉnh đồng đặt tại Thế Miếu, Hoàng Cung Huế - là những văn vật mang tính biểu tượng cao, không chỉ có ý nghĩa với một triều đại lịch sử mà còn có ý nghĩa với cả dân tộc và thời đại. Việc đúc Cửu Đỉnh là cách để triều Minh Mạng tiếp tục đề cao dân tộc, để đề cao vị thế quốc gia, khẳng định vị thế của đất nước trong quan hệ với các nước khác thời bấy giờ.

 Cửu Đỉnh

Cửu Đỉnh

Với những giá trị đặc biệt về văn hóa - lịch sử, Cửu Đỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là Bảo vật Quốc gia vào năm 2012 và những bản đúc nổi trên Cửu Đỉnh đã được UNESCO ghi danh là Di sản Tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2024.

Từ trong sử liệu. Theo Đại Nam thực lục, năm 1835, khi chủ trương cho đúc Cửu Đỉnh, vua Minh Mạng đã giải thích tương đối cụ thể về nguyên nhân đúc đỉnh: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại (…) Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa; đúc 9 cái đỉnh để ở nhà Thế Miếu (…) Đó là để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững...”.

 Bài thơ của vua Minh Mạng liên quan đến việc đúc Cửu Đỉnh được in trong “Ngự chế thi ngũ tập”

Bài thơ của vua Minh Mạng liên quan đến việc đúc Cửu Đỉnh được in trong “Ngự chế thi ngũ tập”

Sau đó tháng 12/1835, việc đúc Cửu Đỉnh bắt đầu được tiến hành. Đến tháng Giêng năm 1837, Cửu Đỉnh đã được hoàn thành. Cửu Đỉnh bao gồm các đỉnh có tên gọi là Cao Đỉnh, Nhân Đỉnh, Chương Đỉnh, Anh Đỉnh, Nghị Đỉnh, Thuần Đỉnh, Tuyên Đỉnh, Dụ Đỉnh và Huyền Đỉnh. Cả 9 đỉnh đều được đúc bằng đồng, thân có dáng bầu tròn, trên vành miệng mỗi đỉnh có khắc hai dòng chữ Hán. Dòng thứ nhất ở phía trái, khắc ghi niên đại đúc đỉnh, đều khắc như nhau: Minh Mạng thập lục niên Ất Mùi chú: Đúc vào năm Ất Mùi (1835), năm Minh Mạng thứ 16. Dòng thứ hai khắc ghi trọng lượng cụ thể của từng đỉnh (đỉnh nặng nhất tương đương 2.600kg; đỉnh nhẹ nhất tương đương 1.900kg).

Khi đúc xong, Khâm Thiên Giám chọn ngày tốt để khánh thành: “Ngày Quý Mão, đặt 9 cái đỉnh ở trước sân Thế Miếu”. Để ghi dấu sự kiện quan trọng này, vua Minh Mạng đã làm một bài thơ thất ngôn bát cú và xen các câu đề, thực, luận, kết trong bài Đường luật này là phần chú thích rất chi tiết liên quan đến việc đúc Cửu Đỉnh như về ý nghĩa, về tên gọi, vị trí cụ thể nơi đặt của các đỉnh, các họa tiết được chạm khắc, kích thước, trọng lượng... Tuy nhiên, đây là một bài thơ được ít người biết đến, nhất là trong các biên khảo về Cửu Đỉnh của các tác giả từng công bố, giới thiệu.

Bài thơ này được in trong Ngự chế thi ngũ tập, với câu mở đề cho bài thơ có đại ý là ”Phỏng theo lối cổ đúc thành Cửu Đỉnh đặt trước sân Thế Miếu, cung nghinh tế cáo, lễ xong làm thơ ghi lại”, phiên âm nội dung bài thơ như sau: Viên dụng cống kim phỏng cổ tiên/ Chú thành Cửu Đỉnh trí đình tiền/ Tam tài cự tế giai thành tượng/ Vạn vật hình dung tận thủ yên/ Kí pháp Hạ hoàng tăng thức khoách/ Khởi phương Tống chủ phí đào chân/ Nguy nga khất lập an bàn thái/ Tử tử tôn tôn vĩnh bảo truyền. Dịch thơ:

Dùng đồng cống nạp, phỏng tiền nhân,

Đúc Cửu Đỉnh xong đặt trước sân.

Lớn bé đất trời thành biểu tượng,

Dáng hình vạn vật trổ xung quanh.

Noi theo Hạ đế, tăng thêm lớn,

Đâu tiếp Tống vương, phí sức thành.

Sừng sững vững yên như núi lớn,

Muôn đời con cháu mãi truyền danh.

Bài thơ này là một tài liệu hữu ích khi nghiên cứu Cửu Đỉnh, và chính bài thơ cũng góp phần làm tăng thêm giá trị lịch sử và nghệ thuật cho Bảo vật Quốc gia đặc biệt quan trọng này.

Các hình ảnh mang tính biểu trưng được đúc chạm trên Cửu Đỉnh được xem là “dư địa chí” sống động về nhiều lĩnh vực. Mỗi đỉnh đều đúc nổi, rồi chạm tinh các hình ảnh bao gồm các loại hình như thiên tượng, linh vật, lãnh hải, sông núi, kiến trúc, quan tấn, cầm thú, côn trùng, thảo mộc, xe kiệu, thuyền bè, binh khí và 2 chữ Hán ghi tên đỉnh. Về việc khắc các hình tượng này, trong sách Đại Nam thực lục, vua Minh Mạng cũng đã nêu quan điểm với Bộ Công rằng: “Nay đúc đỉnh, khắc các hình tượng sông, núi và mọi vật cũng không cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ sở để tiện nhận xét. Đó là cái ý người xưa vẽ hình mọi vật”. Các hình đúc nổi trên mỗi đỉnh được phân bố trí lần lượt theo 3 hàng quanh thân đỉnh và đều có tên chữ Hán đính kèm để định danh cho hình ảnh được chạm khắc.

 Cửu Đỉnh trước Hiển Lâm Các

Cửu Đỉnh trước Hiển Lâm Các

Trong bài thơ viết về Cửu Đỉnh, nhà vua cũng chú thích về ý các hình ảnh được đúc trên các đỉnh với nội dung là, mặt trời, mặt trăng, sao, mây, gió, sấm, cầu vồng, mưa; các danh sơn, sông rộng, sông lớn, biển lớn; cùng tất cả động, thực vật thuộc sở hữu của nước ta; đến các loại xe thuyền, súng lớn đều được tuyển chọn nhằm đúc lên đỉnh. Cửu Đỉnh này đều đúc một lần mà thành, chỉ có việc điêu khắc tinh xảo dụng công thì cần tốn thời gian.

Cửu Đỉnh ghi dấu bằng chứng bảo vệ chủ quyền trên biển của quốc gia. Cửu Đỉnh - bộ cổ vật có ý nghĩa rất đặc biệt mà ngoài những giá trị về kỹ thuật, mỹ thuật, chúng còn có nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, khẳng định về một tinh thần dân tộc để trở thành những biểu tượng của muôn đời.

Trong lịch sử, ngoài nhiều thư tịch cổ thể hiện rõ chủ quyền biển đảo của Việt Nam như Châu bản, Mộc bản, ở Cửu Đỉnh, các hình ảnh Biển Đông (Đông hải; Nam hải; Tây hải); các cửa khẩu xung yếu (Thuận An hải khẩu, Cần Giờ hải khẩu, Đà Nẵng hải khẩu) cũng như các loại thuyền đi biển, thuyền tuần tiễu, thuyền chiến (Ô thuyền, Đa tác thuyền, Lâu thuyền, Mông đồng thuyền, Hải đạo, Lê thuyền...) được chạm khắc trên các đỉnh đều cho thấy thuở trước, người xưa rất quan tâm đến việc thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền trên biển. Hiện tượng đó phản ánh bản chất về các quan điểm, chính sách về biển đảo, thể hiện rõ một quan điểm và chính sách nhất quán trong việc quản lý cương vực lãnh hải của thời đại bấy giờ.

Cửu Đỉnh là một kiệt tác văn vật bằng đồng ở Việt Nam, có thể coi đây là đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng thời Nguyễn. Toàn bộ các công đoạn có tính kỹ thuật đúc đòi hỏi phải huy động một lực lượng lớn về nhân công, thợ giỏi, và trên hết phải có sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng bảo đảm cho một quy trình vận hành thông suốt.

Ngày nay, chưa tìm được sử liệu mô tả về quy trình kỹ thuật, về việc thiết kế khuôn, tạo dáng phù điêu, thực hành đúc..., nên nhìn vào sản phẩm cuối cùng là bộ Cửu Đỉnh, chúng ta khó hình dung được về sự gian khó, nhọc nhằn của biết bao giọt mồ hôi đã từng tan hòa vào văn vật để làm nên báu vật muôn đời mà “con cháu mãi truyền danh”...

Nguyễn Phước Hải Trung

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/muon-doi-con-chau-mai-truyen-danh-150044.html
Zalo