Mùa gió bấc về
Khi làn gió bấc đầu mùa khẽ chạm mặt sông, miền Tây trở mình trong tiết trời se lạnh. Giữa mênh mông sông nước, làn khói bếp quê bảng lảng bay, quyện cùng giọng ai đó cất lên bài vọng cổ 'Lá trầu xanh'. Tiếng hát ấy gợi nhớ dáng hình người phụ nữ Nam Bộ, thủy chung, son sắt, chịu thương, chịu khó, làm nên hồn quê phương Nam.
Cuộc trở về
Tôi trở lại sông Tiền khi mùa gió bấc vừa chớm. Sáng sớm, sương mỏng phủ kín bờ kênh, khói từ mái nhà bay lên nghi ngút. Má Bảy đang nhóm bếp, ngọn lửa hồng lung linh trong gió. Má cười hiền nói: “Gió bấc năm nay về sớm nghen con, chắc vụ lúa này no hạt, đám dưa ngoài đê cũng sắp ra trái rồi đó”. Tôi ngồi bên bếp rơm, nhìn khói bay lãng đãng. Ngoài kia, hàng dừa nghiêng bóng, gió ràn rạt qua vườn chuối. Trong cái lạnh đầu mùa, ký ức xưa như trở lại, đó là những buổi tát đìa rộn rã, mùi khói rơm thơm nồng hương lúa mới.

Cá linh theo con nước lên đồng. Ảnh: THIỀU PHÚC
Khoảng tháng 10 âm lịch hằng năm, gió bấc mang hơi lạnh phương Bắc xuôi về Nam, báo hiệu trời đất sang mùa. Mùa gió bấc cũng là lúc thu hoạch lúa mùa nổi, mùa tát đìa, mùa giã cốm dẹp, mùa cưới. Dưới ruộng, cá rô, cá lóc theo dòng nước rút, con nào cũng béo tròn, nung núc thịt.
Giữa nắng gió biên thùy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Xương Bùi Thái Hoàng chia sẻ: “Vĩnh Xương có vị trí đặc biệt trong phát triển kinh tế biên mậu và giữ vững chủ quyền quốc gia. Chính quyền và Nhân dân nơi đây đang nỗ lực để biến vùng biên giới đầu nguồn thành vùng phát triển năng động, biến cái bất lợi thành cái có lợi để kết nối đồng bằng sông Cửu Long với Campuchia và tiểu vùng Mekong mở rộng”. Thời gian qua, nhờ sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, Vĩnh Xương đang đổi thay từng ngày. Hạ tầng giao thông, hạ tầng sản xuất được từng bước hoàn thiện, đời sống người dân nâng lên rõ rệt. Ý Đảng, lòng dân hòa quyện, đưa vùng biên này trở thành cực tăng trưởng mới của tỉnh.
Rời văn phòng Đảng ủy xã, tôi men theo dòng sông Tiền tìm thăm chú Năm Hoành. Trưa hôm đó, chú rủ tôi ra thăm ruộng. Con đường đất men theo bờ kênh, cỏ xước rạp chiều gió. Cánh đồng trước mặt ngút ngàn nước. Những nơi nằm trong đê bao sản xuất vụ 3, lúa đang thì con gái, hương lúa thơm ngọt ngào. Chú Năm cười hiền: “Hồi xưa, tới chừng gió bấc thổi là ai cũng lo tát đìa bắt cá ăn Tết. Lúc đó vui lắm, bùn sình nhiều mà chẳng ai ngại, tiếng cười vang khắp xóm”.
Khúc hát “Lá trầu xanh”
Chiều xuống, cô Bảy Tiết ngồi bên bến nước, vừa gỡ tóc rối vừa cười: “Chiều nào có gió bấc về mà không hát, thấy nhớ quê lắm, mình hát cho khuây khỏa cuộc đời”. Rồi cô khẽ cất giọng: “Thương nhau cau bổ làm đôi mảnh. Một lá trầu xanh thắm nợ duyên. Cứ mỗi chiều về tan buổi chợ. Em còn hoài niệm bóng người xưa…”. Tiếng hát trôi theo gió, lẫn vào tiếng nước vỗ bờ. Cô Bảy ngừng hát, nhấp ngụm nước trà rồi nói khẽ: “Đời người con gái miền Tây, thương ai thì thương thiệt tình. Cái tình đó giống lá trầu xanh, càng nhai càng cay, càng đậm, càng khó quên”.
Tôi ngồi trong khung cảnh ấy, thấy gió luồn qua mái tóc cô mà lòng chùng xuống. Trong tiếng hát ấy không chỉ có chuyện tình buồn mà còn cả tấm lòng thủy chung, chịu thương, chịu khó của người phụ nữ miền sông nước, những người luôn biết chờ, biết đợi, luôn nhẫn nại; biết giữ cái đẹp hiền hậu giữa cuộc đời nhiều thay đổi. “Đời phụ nữ quê mình cực thì cực chớ hổng than. Còn sống là còn thương, còn lo cho chồng con, cho xóm giềng”, cô Bảy tâm sự.
Câu nói nghe đơn sơ mà chứa cả triết lý nhân sinh. Tình thương của họ không ồn ào, không kể công mà lặng lẽ như dòng sông Tiền, sông Hậu, chảy mãi trong từng bữa cơm, từng bếp lửa, từng câu hát ru con. Người phụ nữ miền Tây như hoa sen mọc giữa bùn, như nhánh lục bình trôi giữa mênh mang sông nước, tưởng mong manh nhưng lại có sức sống lạ kỳ. Họ gồng gánh mưa nắng, gian khó mà vẫn giữ nét đẹp dịu dàng, thủy chung và bao dung như chính dòng sông quê mẹ. Họ là gốc rễ của cái tình, cái nghĩa, cái đẹp chân phương giữa cuộc đời nhiều đổi thay.
Lòng người ấm lại
Đêm xuống, cả xóm quê chìm trong ánh đèn vàng hiu hắt. Trên sông, sóng nước loang ánh trăng non. Tôi ngồi bên bến nước, nghe gió bấc phả vào mái lá rì rào như lời ru xưa. Tôi nhanh chóng ghi vào sổ tay: “Vĩnh Xương mùa gió bấc lại về, đất trời se lạnh mà lòng người vẫn ấm”.
Trời sáng dần. Tôi rời Vĩnh Xương trong làn gió bấc phảng phất. Sông Tiền lấp lánh nắng sớm, xuồng ghe xuôi dòng rộn ràng tiếng máy nổ, tiếng cười. Tôi ngoái nhìn bờ bãi đang lùi xa, thấy bóng cô Bảy lom khom bên bếp lửa, chú Năm Hoành nhóm khói đốt đồng. Giai điệu “Lá trầu xanh” vẫn lẩn quẩn giữa hai bờ sông nước.
Vĩnh Xương tiễn người bằng gió, bằng khói rơm, bằng nụ cười chân chất mà ấm như bếp lửa quê. Tôi chợt hiểu, cái tình của người Vĩnh Xương không ồn ào, không kiểu cách, nhưng rộng lượng, hào sảng và thủy chung đến lạ thường. Họ nghèo mà không hẹp, vất vả mà không than, sống ngay thẳng như dòng sông Tiền, sông Hậu, thương người như thương thân. Mùa gió bấc không chỉ báo hiệu vụ mới mà còn nhắc người ta nhớ rằng, giữa dòng đời hối hả vẫn còn những tấm lòng biết giữ hơi ấm cho nhau, như ngọn lửa trong bếp rơm của các dì, các mẹ, như câu hát “Lá trầu xanh” vẫn ngân giữa đêm dài.
Tạm biệt Vĩnh Xương, vùng đất đầu nguồn, nơi dòng Mekong chảy vào đất Việt. Tôi mang theo trong lòng làn gió bấc hiền hòa và cái tình, cái nghĩa mộc mạc của bà con, của các anh, các chị cán bộ địa phương. Ở nơi ấy, từng tấc đất, bờ kênh, mái nhà đều thấm mồ hôi, tâm huyết của người dân biên giới. Tin rằng, mai này Vĩnh Xương sẽ vươn lên thành cực tăng trưởng của tỉnh, như ước nguyện những người đang ngày đêm giữ cho vùng đầu nguồn này mãi xanh, mãi bình yên.































