Một số nhà sư trụ trì chùa Cao - Sài Sơn qua bia truyền đăng

NSGN - Chùa Cao trên núi Sài vốn nổi danh trong khu danh thắng chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội.

Chùa tên chữ là Đỉnh Sơn tự, bên cạnh có hang Thánh Hóa (Hiển Thụy am) là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh tu luyện, thành đạo, cũng là nơi ngài giải thi đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu, sau trở thành vua Lý Thần Tông.

Từ khi chùa hình thành đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tuy chùa luôn có các vị Tăng Ni trụ trì, nhưng ngoài Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và đệ tử của ngài là Đại Sa-môn Huệ Hưng là có tài liệu ghi chép, thì nhiều vị còn tháp mộ nhưng không còn truyền lại công tích, sự Đạo nghiệp cho ra văn nhà chùa. Mãi đầu thế kỷ XX, khi Thiền sư Thích Thanh Thi trụ trì mới ghi lại hành trạng của sư tổ và sư phụ của mình, nhờ soạn văn bia chữ Hán, khắc lên vách hang Thánh Hóa năm 1927 và in lại trong sách Sài Sơn thi lục do ông chủ biên năm 1930.

Truyền đăng bi ký trên vách hang Thánh Hóa

Truyền đăng bi ký trên vách hang Thánh Hóa

Về văn bia

Bia Truyền đăng chùa Cao - Sài Sơn với tên nguyên văn chữ Hán là Truyền đăng bi ký 傳燈碑記 được khắc năm 1927, niên hiệu Bảo Đại năm thứ hai. Truyền đăng bi ký có 588 chữ, được Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn bằng chữ Hán qua lời kể của nhà sư trụ trì là Như Tùng Thích Thông Thi trụ trì chùa Cao - Đỉnh Sơn tự.

Bia khắc trên vách hang Thánh Hóa, ngay gần cửa vào theo dạng bia ma nhai, hình chữ nhật đứng, cách nền hang hiện nay khoảng 1,5 mét.

Năm 1927, Hòa thượng Như Tùng ghi chép lại công tích, hành trạng của sư tổ Lan Hương và sư phụ Tâm Minh, nhờ Cử nhân Hoàng Thúc Hội người làng Cót (nay thuộc Cầu Giấy, Hà Nội) soạn lại bằng chữ Hán, cư sĩ Nguyễn Đặng Huỳnh người Bình Xá, Thạch Thất viết chữ, làm thành bia Truyền đăng khắc trên vách hang Thánh Hóa. Năm 1930, niên hiệu Bảo Đại thứ năm, Hòa thượng Như Tùng chủ biên sách Sài Sơn thi lục, cho in nguyên văn Truyền đăng bi ký vào cuối sách từ tờ số 66 đến 68, mỗi tờ gồm 2 trang. Văn bản Sài Sơn thi lục hiện lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam tại Hà Nội có 1 bản với ký hiệu R.1622, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội có 2 bản với ký hiệu VHv.2358 và A.3033. Các bản Sài Sơn thi lục này đều là bản khắn in, chữ khá rõ nét. Văn bản Truyền đăng bi ký chúng tôi sử dụng tham khảo trong bài viết này là bản lưu tại Thư viện Quốc Gia tại Hà Nội có 1 bản với ký hiệu R.1622.

Điểm chú ý của văn bia là dù ở cuối thời Nguyễn nhưng vẫn tuân thủ việc kỵ húy, các chữ thời 時 đổi thành thìn 辰 để tránh húy vua Tự Đức.

Nhận thấy bia Truyền đăng chùa Cao - Sài Sơn là tư liệu quý để nghiên cứu lịch sử truyền thừa và hành trạng các vị trụ trì chùa Cao - chùa Thầy nói riêng và Phật giáo miền Bắc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nói chung, do vậy chúng tôi dùng nguyên văn chữ Hán của văn bia được in trong sách Sài Sơn thi lục, tiến hành phiên âm, dịch, giới thiệu toàn văn văn bia này.

Về tác giả

Cử nhân Hoàng Thúc Hội hiệu Cúc Hương, tự Gia Phủ, sinh năm 1870 tại làng Yên Quyết, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội). Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1906) niên hiệu Thành Thái thứ 18 triều Nguyễn, song không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học.

Ông mở trường dạy chữ Hán, có nhiều môn sinh ở vùng Sài Sơn và có công giúp đỡ Hòa thượng Như Tùng rất nhiều trong việc chỉnh lý thư tịch, khắc in kinh sách, soạn thảo văn bia, trong đó có Truyền đăng bi ký. Hiện nay Cử nhân Hoàng Thúc Hội còn để lại cho đời hàng chục tác phẩm sáng tác thơ văn và biên soạn thư tịch gắn với vùng thắng tích Sài Sơn chủ yếu nằm trong hai cuốn sách Sài Sơn thi lụcSài Sơn thực lục(1).

Ông mất năm Mậu Dần (1938), hưởng thọ 68 tuổi. Sinh thời, đạo đức và tài văn chương của ông được nhiều sĩ phu kính trọng.

Tờ 66 của Truyền đăng bi ký trong Sài Sơn thi lục

Tờ 66 của Truyền đăng bi ký trong Sài Sơn thi lục

Về các nhà sư trong Truyền đăng bi ký

1. Hòa thượng Lan Hương

Hòa thượng Lan Hương, Thích hiệu Thanh Hà quê tại xã Khắc Niệm, Bắc Ninh. Ngài mất ngày 15 tháng 5 năm Kỷ Hợi (1899) thời vua Thành Thái, hưởng thọ 80 tuổi. Người xưa tính cả tuổi mụ nên năm sinh của ngài là năm 1820.

Ban đầu ngài theo nghiệp nhà Nho, sau xuất gia đầu Phật. Ngài xuất gia ở chùa Đại Giác làng Bồ Sơn (Bắc Ninh), làm đệ tử của Hòa thượng Phúc Điền. Ngài vốn là người viết chữ đẹp, ra sức luyện viết chữ khải, tuổi tuy già cả mà ngày ngày đều ám tả, di bút đến thời điểm khắc Truyền đăng bi ký vẫn còn lại rất nhiều. Trong tác phẩm Thiền sư Việt Nam, ở mục Hòa thượng Phúc Điền, Hòa thượng Thích Thanh Từ viết : “Thiền sư Phúc Điền là người có công lớn trong việc bảo tồn sử liệu Phật giáo. Ông biên soạn sách Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục. Ông trú trì chùa Liên Tông, làng Bạch Mai, tỉnh Hà Đông, nhưng công việc san khắc này được thực hiện tại chùa Bồ Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Công việc san khắc, ông giao cho Thiền sư Phương Viên, giám tự chùa Bồ Sơn, đứng ra chủ trì. Một vị Tăng chùa Bồ Sơn pháp danh làThanh Hà phụ trách việc viết chữ khắc bản”(2). Có lẽ vị phụ trách viết chữ, khắc bản Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục chính là Hòa thượng Lan Hương Thanh Hà.

Khi quan Đại sứ Bắc Kỳ là Nguyễn Đăng Giai cho xây dựng chùa Báo Ân bên bờ hồ Hoàn Kiếm ông đã thỉnh Hòa thượng Phúc Điền trụ trì. Hòa thượng Phúc Điền cử đệ tử Lan Hương đến trông nom chùa cảnh. Sau khi Hòa thượng Phúc Điền viên tịch, ngài là người soạn “Cúng Hòa thượng khoa” cho Hòa thượng Phúc Điền(3). Đến năm 1882, do chiến tranh, chùa hoang tàn đổ nát, không thể dựng lại, Hòa thượng Lan Hương đi vân du nhiều nơi như: Thúy Sơn Mai Động, Thoán Lĩnh Mỹ Giang, v.v. nhưng không trụ trì cố định ở nơi nào. Đến năm 1897, thời vua Thành Thái, dân làng mới cung thỉnh ngài về trụ trì chùa Cao - Đỉnh Sơn tự. Ngài trụ trì được ba năm thì viên tịch, táng ở chân núi, tên tháp là Phổ Oánh, Thích hiệu Thanh Hà, Không Không nhục thân Bồ-tát.

2. Hòa thượng Tâm Minh

Hòa thượng Tâm Minh là đệ tử của Hòa thượng Lan Hương, không rõ năm sinh và quê quán ở đâu. Ngài trụ trì chùa Cao - Đỉnh Sơn tự từ khi sư phụ viên tịch năm 1899, có công xây sửa chùa chiền; sửa đền Khải Thánh, đắp tượng Thánh Mẫu, dựng lầu chuông, xây bếp, đồng thời tu tạo tự viện các nơi, làm tiếp công đức của sư phụ Lan Hương khi còn tại thế. Năm 1906, ngài tu tạo chùa Già Tây, xã Bảo Vệ, huyện Phúc Thọ, ngày 10 tháng 12 năm này, ngài mất mà việc chưa xong. Đến khi hết tang, Hòa thượng Như Tùng đón xá-lợi thầy về táng tại chân núi, tên tháp là Tây Lĩnh, Thích hiệu Kiến Tính, nhục thân Bồ-tát.

3. Hòa thượng Như Tùng

Hòa thượng Thích Thông Thi, hiệu Như Tùng, pháp danh Mậu, dân quanh vùng quen gọi là Sư ông Mậu. Quê ngài ở làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội, chưa rõ năm sinh, năm mất, hiện nay nhà chùa giỗ ngài ngày 24 tháng 3 âm lịch. Theo Truyền đăng bi ký, đến năm 1906, sau khi Tôn sư Tâm Minh viên tịch, ngài chính thức trở thành trụ trì chùa Cao, năm 1927 khắc bia Truyền đăng, năm 1930 khắc in bộ Sài Sơn thi lục, năm 1940 khắc in bộ Sài Sơn thực lục. Các công trình, thự tịch trên cho thấy, trong thời gian trụ trì, Hòa thượng Như Tùng đã dành hết tâm sức cho việc xây dựng chùa cảnh, biên soạn, biên tập kinh sách và hoằng dương Phật pháp. Ngài xây dựng Bất nhị pháp môn, sửa đường lên núi, tôn tạo tòa Tam bảo và am Hiểm Thụy, quy tập hài cốt trong hang Cắc Cớ về bể chung làm nơi tưởng niệm. Trong khu vực chùa Thầy còn lưu lại khá nhiều câu đối, văn bia, di văn của ngài. Bên cạnh bia Truyền đăng chùa Cao - Sài Sơn mà Hòa thượng Như Tùng là người kể cho Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn lại bằng chữ Hán, ngài còn soạn một tấm bia Truyền đăng khác bằng chữ Nôm ở chùa Mai Trai - Linh Ứng tự tại thị xã Sơn Tây.

Hòa thượng cũng biên tập, khắc in kinh sách, đặc biệt là sách về Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và vùng đất Sài Sơn: Sài Sơn Thánh tổ Đại thừa chân kinh, Sài Sơn thực lục, Thánh tổ linh sám, Sài Sơn thi lục, Sài Sơn văn tập, v.v. Kết quả của các việc làm đó đã khiến cho cảnh chùa ngày càng thu hút sự mến mộ của khách thập phương. Nhiều người đã ca tụng công đức ấy, chẳng hạn như Cử nhân Nguyễn Sư Hoàng khi được đọc tập Sài Sơn thi lục đã viết: “Đáng khen thay nhà sư Như Tùng đã có chí có học lại có tâm với bảo tồn vốn cổ, thực đáng là hào kiệt ít thấy trong hàng Sa-môn vậy”(4).

Hòa thượng Như Tùng hoạt động tích cực trong phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, là diễn giả nổi tiếng ở vùng Canh Diễn (Hoài Đức - Hà Nội ngày nay). Trong sách Đông Kinh Nghĩa thục - góc nhìn sử Việt của Chương Thâu có viết: “Sư ông Như Tùng ở chùa Cao (Sài Sơn, Sơn Tây) là một cổ động viên rất đắc lực của Nghĩa thục, vì giọng bình văn lên bổng xuống trầm của ông rất có khả năng thuyết phục người nghe. Nơi diễn thuyết đầu tiên là làng Phương Canh (Hoài Đức) sau đó là các xã Tây Tựu, Hạ Lôi, Thượng Cát, Yên Lộ, Tây Mỗ (thuộc Hoài Đức), Đan Hội (Đan Phượng), Phúc Diễn (Ứng Hòa), Nhị Khê (Thường Tín)”(5).

Năm 1907, Hòa thượng Như Tùng cũng là người mang chi nhánh của Đông Kinh Nghĩa thục về hoạt động ở miếu Vũ trước cửa chùa Cả, chùa Cao, chùa Một Mái và đền Thượng trong khu vực danh thắng chùa Thầy. Nhiều cụ đồ Nho ở các làng như các cụ Phan Kiên Tuyên, Nguyễn Tất Khuyến, Nguyễn Đình Tài, v.v. đã tham gia chi nhánh của Nghĩa thục. Miếu Vũ thôn Thụy Khuê thường là nơi tổ chức bình thơ ca yêu nước(6). Ngài cũng tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo ở tỉnh Sơn Tây, là chánh đại biểu Tăng của Chi hội Phật giáo Bắc Kỳ tỉnh Sơn Tây. Ngài có nhiều bài phát biểu, bài viết, phổ khuyến và các hoạt động khác nhằm thúc đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo phát triển(7).

Truyền đăng bi ký chùa Cao - Sài Sơn là một tư liệu Hán Nôm quý của giai đoạn cận hiện đại. Tấm bia này sẽ đưa ra những gợi mở để phát triển nghiên cứu lịch sử truyền thừa Phật giáo và tình hình Phật giáo miền Bắc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chúng tôi hy vọng rằng việc giới thiệu, phiên dịch tấm bia này sẽ cung cấp thêm thông tin, có ích cho việc nghiên cứu Phật học.

Hang Thánh Hóa ngày nay

Hang Thánh Hóa ngày nay

Nguyên văn chữ Hán:

傳燈碑記

髙山天作。似别一梵宇乾坤也。自俆琞修煉斯山。三生道果。再世聲聞。又成一勝境靈跡也。辰劂後住持于此也者。代有其人。今無聞者。昔無傳也。暨我祖師卓鍚心花覺樹。奕枼流芳。茂其宗派也。

師祖法名蘭香。 以慧業修行。不知其何許人。偶一族人來訪始知其貫北寧克念社。初従儒不知其所以乃。报禪于蒲山大覺。度牒福田和尚。和尚誥其行徑。始而疑之。繼而識之。其志堅。居無何。北圻大使阮公登階。河城之報恩寺成。請和尚遴禪尊。和尚命祖師主之。嗣德壬午河城有事。辰遷寺廢。祖師乃雲遊四方。以說法授徒爲已責。厯翠山梅洞。䧘嶺美江諸寺。無常住。而道德日高。門日眾。工楷書。歲耄猶能炤日暗冩。遺筆尚多。成泰丁酉年。本邑聞而 之。歸本寺居三年。己亥夏五月十五日示寂享壽八十歲。塟山下。塔號普瑩。釋號清河。空空肉身菩薩。

我尊師法名心明。亦以堅忍自持。不知其貫。繼燈本寺。有功禪宇。修啓聖祠。塑聖母像。造鐘楼。設神厨。並造諸寺院。凢所以繼我祖師未卒功者。靡不畢舉。嵗丙午。又修福壽保衞社伽西寺。是年十二月二十日。甫卒功而没。服闋茂迎回仍塟山下。塔號西嶺。釋號見性肉身菩薩。

噫臨濟真傳。淵源一脉。凈土天遙。山境地迩。百年俯仰間。使後之視今。不至如今之視昔云耳。壽之石。用不忘其所自。

保大二年丁卯秋七月上浣。

三代法孫本寺住持法名茂小號如松拜紀。

河東慈廉安决丙午科擧人菊香黃叔會敬撰。

山西石室平舍居士金平阮鄧濙拜書。

Phiên âm:

Truyền đăng bi ký

Cao sơn thiên tác, tự biệt nhất phạm vũ càn khôn dã. Tự Từ thánh tu luyện tư sơn, tam sinh đạo quả, tái thế thanh văn; hựu thành nhất thắng cảnh linh tích dã. Thìn (thời) quyết hậu, trụ trì vu thử giả, đại hữu kỳ nhân, kim vô văn giả, tích vô truyền dã. Kỵ ngã Tổ sư trác tích, tâm hoa giác thụ, dịch diệp lưu phương, Mậu kỳ tông phái dã.

Tổ sư Pháp danh Lan Hương, sơ dĩ tuệ nghiệp tu hành, bất tri kỳ hử nhân. Ngẫu nhất tộc nhân lai phỏng thủy tri kỳ quán Bắc Ninh Khắc Niệm xã, sơ tòng Nho, bất tri kỳ sở dĩ nãi, báo thiền vu Bồ Sơn Đại Giác độ điệp Phúc Điền Hòa thượng. Hòa thượng cáo kỳ hành kính, thủy nhi nghi chi, kế nhi thức chi. Kỳ chí kiên, cư vô hà. Bắc Kỳ Đại sứ Nguyễn công Đăng Giai, Hà Thành chi Báo Ân tự thành, thỉnh Hòa thượng lân Thiền tôn, Hòa thượng mệnh Tổ sư chủ chi. Tự Đức Nhâm Ngọ, Hà Thành hữu sự, thìn (thời) thiên tự phế, Tổ sư nãi vân du tứ phương, dĩ thuyết pháp thụ đồ vi kỷ trách. Lịch Thúy Sơn Mai Động, Thoán Lĩnh Mỹ Giang chư tự, vô thường trụ; nhi đạo đức nhật cao, môn đồ nhật chúng; công khải thư, tuế mạo do năng chiêu nhật ám tả, di bút thượng đa. Thành Thái Đinh Dậu niên, bản ấp văn nhi nghênh chi, quy bản tự; cư tam niên, Kỷ Hợi hạ ngũ nguyệt thập ngũ nhật thị tịch, hưởng thọ bát thập tuế. Táng sơn hạ, tháp hiệu Phổ Oánh, Thích hiệu Thanh Hà, Không Không nhục thân Bồ-tát.

Ngã Tôn sư pháp danh Tâm Minh, diệc dĩ kiên nhẫn tự trì, bất tri kỳ quán. Kế đăng bản tự, hữu công thiền vũ, tu Khải thánh từ, tố Thánh Mẫu tượng, tạo chung lâu, thiết thần trù, tịnh tạo chư tự viện. Phàm sở dĩ kế ngã Tổ sư vị tốt công giả, mỹ bất tốt cử. Tuế Bính Ngọ, hựu tu Phúc Thọ Bảo Vệ xã Già Tây tự, thị niên thập nhị nguyệt thập nhật, phủ tốt công nhi một. Phục khuyết, Mậu nghênh hồi nhưng táng sơn hạ, tháp hiệu Tây Lĩnh, Thích hiệu Kiến Tính, nhục thân Bồ-tát.

Y! Lâm Tế chân truyền, uyên nguyên nhất mạch, Tịnh độ thiên dao, sơn cảnh địa nhĩ, bách niên phủ ngưỡng gian, sử hậu chi thị kim, bất chí như kim chi thị tích vân nhĩ. Thọ chi thạch, dụng bất vong kỳ sở tự.

Bảo Đại nhị niên Đinh Mão thu thất nguyệt thượng hoán.

Tam đại Pháp tôn Bản tự Trụ trì, Pháp danh Mậu tiểu hiệu Như Tùng bái kỷ.

Hà Đông Từ Liêm Yên Quyết, Bính Ngọ khoa Cử nhân Cúc Hương Hoàng Thúc Hội kính soạn.

Sơn Tây Thạch Thất Bình Xá cư sĩ Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh bái thư.

Dịch nghĩa:

Bia truyền đăng

Trời tạo núi cao, giống như một tòa phạm vũ(8) chiếm riêng một góc đất trời vậy. Từ khi Thánh Từ tu luyện ở núi này, ba kiếp tròn đạo quả(9), tái thế thành bậc Thanh văn(10), cũng trở nên một vùng cảnh đẹp, dấu thiêng vậy. Về sau, nơi đây đời nào cũng có người trụ trì, nay chẳng nghe tên, bởi xưa không truyền lại. Đến khi Tổ sư tôi cắm gậy tích(11), trụ trì nơi đây thì cây giác hoa tâm(12), nối đời lưu lại tiếng thơm. Mậu tôi cũng thuộc tông phái này.

Tổ sư Pháp danh Lan Hương; lúc mới theo tuệ nghiệp tu hành, tôi không biết ngài là người ở đâu, ngẫu nhiên gặp được một người cùng họ với ngài đến thăm thì mới biết quê ngài ở xã Khắc Niệm, tỉnh Bắc Ninh, mới đầu theo nghiệp nhà Nho, không biết vì sao ngài lại học thiền với bậc Đại giác Bồ Sơn là Giới đao Độ điệp Hòa thượng Phúc Điền(13). Hòa thượng bảo cho ngài đi đường thẳng, ngắn nhất; đầu tiên còn nghi ngại, sau đó mới nhận ra, ý chí ngài kiên định. Ít lâu sau, chùa Báo Ân ở Hà Thành do ông Đại sứ Bắc Kỳ Nguyễn Đăng Giai xây dựng đã hoàn thành, thỉnh Hòa thượng chọn người trong Thiền tôn (về trụ trì), Hòa thượng mệnh cho Tổ sư Lan Hương làm chủ việc này. Năm Nhâm Ngọ, thời vua Tự Đức (1882), Hà Thành thất thủ, thời đại biến đổi, cảnh chùa hoang phế, Tổ sư lại vân du bốn phương, lấy thuyết pháp, truyền dạy cho đồ đệ làm trách nhiệm của mình. Ngài đi khắp các chùa ở Thúy Sơn Mai Động, Thoán Lĩnh Mỹ Giang, chẳng thường trụ nơi nào mà đạo đức ngày càng cao, môn đồ ngày càng đông. Ngài ra sức luyện viết chữ khải, tuổi tuy già cả mà ngày ngày đều ám tả, di bút còn lại rất nhiều. Năm Đinh Dậu, thời vua Thành Thái (1897), làng ta mới nghe danh tiếng mà đón ngài về chùa này. Ở được ba năm, đến ngày 15 tháng 5, mùa hè năm Kỷ Hợi (1899), ngài thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi, táng ở chân núi, tên tháp là Phổ Oánh, Thích hiệu Thanh Hà, Không Không nhục thân Bồ-tát.

Tôn sư của tôi pháp danh Tâm Minh, cũng kiên nhẫn tự tu trì, không biết quê thầy ở đâu, nối đèn thiền bản tự, có công xây sửa chùa chiền; sửa đền Khải Thánh, đắp tượng Thánh Mẫu, dựng lầu chuông, xây bếp thần, đồng thời tu tạo tự viện các nơi, bởi thầy làm tiếp công đức của Tổ sư tôi khi còn sống, nên việc xa xỉ, tổn hại đều không làm. Năm Bính ngọ (1906) lại tu tạo chùa Già Tây, xã Bảo Vệ, huyện Phúc Thọ, ngày 10 tháng 12 năm này, ngài mất mà việc chưa xong. Đến khi hết tang, Mậu tôi đón xá-lợi thầy về táng tại chân núi, tên tháp là Tây Lĩnh, Thích hiệu Kiến Tính, nhục thân Bồ-tát.

Ôi! Lâm Tế chân truyền, dòng sâu một mạch, trời Tịnh độ xa xôi, đất núi non gần gũi, trong khoảng trăm năm cúi xuống trông lên, khiến cho đời sau thấy ngày nay, chẳng khác nào ngày nay ngóng trông, nghe nói về ngày xưa. Bền lâu như đá, dùng nó khắc lời này để mãi mãi không quên.

Thượng tuần tháng 7 năm Đinh mão, niên hiệu Bảo Đại năm thứ 2 (1927).

Tam đại Pháp tôn - trụ trì bản tự, pháp danh Mậu, hiệu Như Tùng kính cẩn ghi lại.

Cử nhân khoa Bính Ngọ (1906) - Hoàng Thúc Hội, người Yên Quyết, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông kính soạn.

Cư sĩ Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh người Bình Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây kính cẩn viết chữ.

_________

(1)Nguyễn Tá Nhí, “Cử nhân Hoàng Thúc Hội với non nước Sài Sơn, Kỷ yếu Hội thảo chùa Thầy và chư Thánh Tổ sư, NXB.Văn hóa Thông tin, 2013, tr.197.

(2)Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, NXB.Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.468. Tham khảo Thiền uyển truyền đăng lục, quyển thượng, tờ cuối có ghi: “Bồ Sơn môn nhân pháp danh Thanh Hà phụng tả” (tờ 63b1).

(3)Cúng Hòa thượng khoa, bản sao tả lưu tại chùa Đỉnh Sơn, do “Pháp tử Báo Ân tự, tự Lan Hương phụng soạn”, khoảng thế kỷ XIX.

(4)Lưu Đình Tăng, Nhà sư Như Tùng và bài Phổ khuyến xây dựng chùa Cao ở Sài Sơn, Thông báo Hán Nôm học 1998, tr.385.

(5)Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa thục - gócnhìnsửViệt, NXB.Hồng Đức, 2015, tr.109-110.

(6)Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sài Sơn, Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Sài Sơn 1935 – 1945, tập 1 (Sơ thảo), 1987, tr 17.

(7)Tạp chí Đuốc Tuệ, số 47, ra ngày 17 tháng 11 năm 1935.

(8)Phạm vũ: Chùa chiền nói chung, chỉ nơi thanh tịnh của bậc tu hành.

(9)Ba kiếp: Chỉ ba kiếp hóa sinh của Thánh tổ Từ Đạo Hạnh, tu tiên, tu Phật và đầu thai làm vua Lý Thần Tông.

(10)Thanh văn: Một quả vị tu chứng trong đạo Phật, chỉ hàng đệ tử xuất gia nghe giáo pháp của Phật mà chứng ngộ, nhờ âm thanh mà giải ngộ và theo cơ duyên mà giảng giải cho chúng sinh được giác ngộ.

(11)Cắm gậy tích: Gậy tích trượng là pháp khí nhà Phật, trên đầu thường có các vòng bằng thiếc (tích) khi đi rung lên tiếng kêu leng keng để xua đuổi côn trùng, báo hiệu sự có mặt của Tăng chúng và chống đỡ cho người già yếu. Việc cắm gậy tích hay lưu tích trượng chỉ việc dừng lại, lưu trú, trụ trì của các nhà sư ở một nơi nào đó.

(12)Cây giác hoa tâm: Chỉ các vị tu hành đắc đạo.

(13)Hòa thượng Phúc Điền (1784-1863): Ngài được biết đến với hai công hạnh nổi bật. Thứ nhất trùng hưng nhiều ngôi già lam danh tiếng ở miền Bắc, như các chùa Pháp Vân, Đại Giác, Phú Nhi, Liên Trì, Liên Phái, v.v. Việc thứ hai là sưu tầm và tổ chức khắc ván nhiều bộ kinh sách quan trọng của Phật giáo, đặc biệt các bộ có liên quan đến Phật giáo sử: Đạo giáonguyênlưu, Thiền uyển truyềnđăng lục, Thiền môntu trìkinhchúluật nghi, Tại gia tu trì Thích giáo nguyên lưu, Sa-di luật nghi giải âm, v.v. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), ngài vào Huế dự kỳ thi sát hạch Tăng sĩ, được triều đình ban giới đao độ điệp, ban hiệu Phúc Điền Hòa thượng.

Tài liệu tham khảo

Sách chữ Hán

Sài Sơn thi lục, ký hiệu R.1622.

Tài liệu chữ Quốc ngữ

Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sài Sơn, Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Sài Sơn 1935-1945, tập 1 (sơ thảo), 1987.

Nguyễn Tá Nhí, Cử nhân Hoàng Thúc Hội với non nước Sài Sơn, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chùa Thầy và chư Thánh tổ sư, NXB.Văn hóa thông tin, 2013.

Tạp chí Đuốc Tuệ, số 47, ra ngày 17 tháng 11 năm 1935.

Lưu Đình Tăng, Nhà sư Như Tùng và bài Phổ khuyến xây dựng chùa Cao ở Sài Sơn, Thông báo Hán Nôm học1998, tr.385.

Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa thục - góc nhìn sử Việt, NXB.Hồng Đức, 2015.

Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, NXB.TP.Hồ Chí Minh, 1999.

NS344.

Nguyễn Văn Vũ/Nguyệt san Giác Ngộ

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/mot-so-nha-su-tru-tri-chua-cao-sai-son-qua-bia-truyen-dang-post74856.html
Zalo