Mọi hành trình cần bắt đầu với một đích đến rõ ràng

Ông Phạm Hồng Hải, Tổng giám đốc OCB chia sẻ: 'Ranh giới giữa đúng và sai rất khó cho người làm nghề ngân hàng, nhưng tôi tin, nếu mình có thể giữ được tâm sáng thì hy vọng sẽ đi đến đích'. Nhuệ Mẫn thực hiện.

Ông Phạm Hồng Hải

Ông Phạm Hồng Hải

Rời khỏi vùng trời an toàn

Cuối năm 2014, ông là người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm làm tổng giám đốc một ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và năm 2019, ông là người Việt Nam đầu tiên nhận nhiệm vụ giám đốc khối kinh doanh quốc tế tại Canada của ngân hàng này. Nhìn lại quyết định rời khỏi Việt Nam, rời khỏi “vùng trời an toàn”, ông có suy nghĩ gì?

Khi tôi sang Canada, hầu như tất cả đồng nghiệp tại đây đều hỏi tại sao tôi lại từ bỏ một vị trí đang rất tốt và môi trường hết sức thuận lợi (Việt Nam lúc đó là ngôi sao sáng của khu vực) để sang một “vùng đất mới” và bắt đầu gây dựng lại từ đầu.

Thực tế, sau 24 năm làm việc tại HSBC Việt Nam, tôi muốn có một cơ hội làm việc tại thị trường quốc tế để đánh giá khả năng hội nhập, thích ứng của mình ở thị trường mới sẽ như thế nào. Đây cũng kinh nghiệm mà tôi đang thiếu.

Ngoài ra, tôi rất cần một thử thách mới sau gần 5 năm lãnh đạo HSBC Việt Nam để có thể bước ra khỏi “vùng an toàn”. Tổ chức lúc đó hoạt động khá tốt và tôi cần tìm một động lực mới để thúc đẩy sự phát triển của bản thân.

Trong quãng thời gian làm việc tại Canada, những trải nghiệm về thị trường quốc tế được ông “khắc họa” lại như thế nào?

Đây là một trải nghiệm rất lý thú. Có nhiều thứ như giải pháp về thanh toán số hay tài trợ thương mại, Việt Nam đã vượt xa so với Canada, do chúng ta không phải phát triển từng bước mà đã có những bước nhảy vọt.

Bên cạnh đó, tôi nhận thấy thị trường tài chính Việt Nam rất mở nên mức độ cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn thị trường tài chính Canada. Ngoài ra, sức chiến đấu và khát vọng của người lao động Việt Nam vẫn mạnh mẽ hơn so với người lao động tại các nước phát triển. Đây là điểm mạnh chúng ta nên duy trì.

Ngược lại, thị trường tài chính Canada có sự kết nối chặt chẽ với Mỹ nên nhiều sản phẩm huy động vốn lớn và phức tạp diễn ra thường xuyên và các quỹ đầu tư, bảo hiểm tham gia rất tích cực. Đây là việc chúng ta cần làm để phát triển thị trường vốn, giúp giảm sự lệ thuộc của nền kinh tế lên hệ thống ngân hàng đối với nguồn vốn trung và dài hạn.

Bên cạnh đó, yếu tố tập trung và hiệu quả được đặt lên hàng đầu, khi đa phần những cuộc họp quy mô nhỏ đều chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. Trong khi đó, thời gian họp tại Việt Nam thường rất dài, mà nhiều khi không hiệu quả.

Sau 4 năm làm việc ở Canada, ông đã quay về Việt Nam. Nếu quay ngược lại thời gian, ông có sẵn sàng quyết định rời Việt Nam sang Canada như đã từng làm?

Tôi vẫn tin rằng, quyết định đi ra thị trường nước ngoài là hợp lý, vì nó giúp cho tôi có một trải nghiệm rất lý thú cả về công việc lẫn gia đình.

Canada cũng là một đất nước xinh đẹp và có lẽ là một trong số rất ít nước mà bạn không cảm thấy mình là người nước ngoài, do đa phần người dân Canada là dân nhập cư. Khi tôi đi gặp các khách hàng của mình, chúng tôi dễ trao đổi vì có “điểm chung”. Các con tôi cũng trưởng thành và tự tin hơn khi phải tự chủ động trong nhiều việc.

Đích đến rõ ràng

Quay trở về Việt Nam, điều gì thôi thúc khiến ông tiếp tục công việc trong lĩnh vực tài chính?

Trước khi tôi làm việc tại nước ngoài, tôi luôn xác định mình sẽ quay trở về Việt Nam, vì đây vẫn là quê hương và tôi tin có thể đóng góp tốt nhất tại đây.

Thị trường tài chính Việt Nam hiện đã và đang thay đổi rất nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán, giải pháp tài chính. Tuy nhiên, cần phát triển một cách bền vững hơn và tôi hy vọng mình có thể đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình phát triển này.

Là người trải nghiệm ở cả hai môi trường quốc tế và nội địa, chắc hẳn ông cũng nhận thấy có những khác biệt. Ví dụ như những quy định, chuẩn mực quốc tế chưa được thực hiện đồng bộ tại Việt Nam, mà phần lớn là điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Theo ông, mặt tích cực và chưa tích cực của câu chuyện này là gì?

Chúng ta nên bắt đầu hành trình với một đích đến rõ ràng để bất kỳ quyết định nào cũng sẽ hướng đến đó. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng nói chung đều nhận thấy sự cần thiết của việc áp dụng chuẩn mực quốc tế vào thị trường Việt Nam để đảm bảo sự phát triển minh bạch, an toàn và bền vững.

Thị trường tài chính thế giới đã trải qua hàng trăm năm phát triển với rất nhiều cuộc khủng hoảng. Các chuẩn mực quốc tế được xây dựng dựa trên những bài học này và Việt Nam có điều kiện để không lặp lại những sai lầm đó.

Mặt khác, mặt bằng của ngân hàng tại Việt Nam không đồng đều nên nếu áp dụng một chuẩn mực quốc tế cao ngay, nhiều tổ chức sẽ gặp khó khăn. Theo tôi, quan trọng nhất là chúng ta nên có một lộ trình nâng chuẩn hệ thống rõ ràng và cần kiên định với lộ trình này. Nếu không thể “nhanh chân” thì bạn phải chấp nhận sát nhập với tổ chức mạnh hơn.

Ngân hàng ngoại, nhà đầu tư nước ngoài đang dần rút vốn khỏi các ngân hàng Việt. Liệu có phải “sân chơi” giờ chỉ còn “mình ta với ta”, hay nói cách khác, ngân hàng nội đang và sẽ “cầm trịch” thị trường?

Theo tôi, đã có nhiều làn sóng đầu tư từ nước ngoài vào ngân hàng Việt. Làn sóng đầu tiên xuất phát từ các ngân hàng toàn cầu, với tham vọng mở rộng mạng lưới quốc tế và đẩy nhanh tốc độ phát triển thông qua việc mua cổ phần tại ngân hàng nội.

Hầu hết những cuộc “hôn nhân” này đều thất bại, do mục tiêu rất khác nhau của hai bên. Mục tiêu của họ khi tham gia mua cổ phần sẽ trở thành cổ đông lớn và có tác động đáng kể lên chiến lược của ngân hàng.

Mục tiêu của OCB là trở lại Top 5 ngân hàng tư nhân hiệu quả nhất Việt Nam trên tiêu chí lợi nhuận trước thuế và ROE.

Mục tiêu của OCB là trở lại Top 5 ngân hàng tư nhân hiệu quả nhất Việt Nam trên tiêu chí lợi nhuận trước thuế và ROE.

Thực tế cho thấy, với tỷ lệ sở hữu tối đa 15%, các ngân hàng ngoại không có nhiều ảnh hưởng đến chiến lược phát triển của ngân hàng. Đặc biệt, khi Basel III có hiệu lực, việc sở hữu tỷ lệ cổ phần nhỏ sẽ không được tính vào vốn khi hợp nhất ở ngân hàng mẹ.

Làn sóng thứ hai diễn ra gần đây xuất phát từ các ngân hàng trong khu vực châu Á và lần này, nhà đầu tư nước ngoài có một mục tiêu thực tế hơn, thay vì mong muốn trở thành cổ đông chi phối, họ tìm kiếm cơ hội hợp tác hơn là thay đổi chiến lược của ngân hàng nội. Họ sẽ tham gia như là một nhà đầu tư và cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật, nhân sự, kinh nghiệm quản trị khi ngân hàng nội cần.

Vai trò của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng đã thay đổi rất nhiều. Cách đây 10 năm, nhóm này có một khoảng cách an toàn về nền tảng công nghệ, quản trị rủi ro, giải pháp sản phẩm... so với ngân hàng nội.

Hiện nay, rất nhiều ngân hàng nội có sự vượt trội về công nghệ, sản phẩm, tốc độ thay đổi và sự quyết liệt đầu tư vào con người.

Chúng ta thấy rất rõ trong cuộc chơi của thị trường bán lẻ, ngân hàng nước ngoài đã hoàn toàn hụt hơi, cho dù họ vẫn đóng một vai trò quan trọng tại thị trường nội địa khi tạo sự kết nối giữa Việt Nam và thế giới thông qua việc phục vụ phân khúc công ty nước ngoài tại đây và hỗ trợ công ty Việt Nam ra nước ngoài, hay giúp huy động vốn từ thị trường vốn quốc tế.

Hệ thống ngân hàng Việt những năm qua đã có những thay đổi mang tính “sống còn” trên nhiều lĩnh vực và một trong số đó là mảng bán lẻ như ông đề cập. Ngân hàng bán lẻ được thúc đẩy mạnh mẽ ngay từ các ngân hàng lớn có truyền thống tập trung mảng bán buôn và đã mang lại lợi nhuận “khủng”. Tuy nhiên, có hai mặt của vấn đề: theo đuổi lợi nhuận và quản trị rủi ro. Theo ông, có sự bế tắc nào mà không tìm được lối ra?

Nếu chúng ta thực sự đặt khách hàng làm trọng tâm, tôi tin rằng, tổ chức chắc chắn sẽ thành công. Đây cũng là định hướng của nhiều tổ chức, nhưng thực tế rất ít đơn vị làm được và thành công.

Cái khó là nhiều khi chúng ta quá chú trọng vào công tác nội bộ như cắt giảm chi phí, ban hành các quy trình, dẫn đến những phòng, ban liên quan muốn bảo vệ tốt nhất lợi ích của mình mà quên mất lý do tổ chức có thể tồn tại được là phải có khách hàng và phải mang lại giá trị tốt nhất cho khách hàng - mục tiêu của tổ chức.

Để làm được điều này đòi hỏi sự kiên định, vì nhiều khi chúng ta quan tâm lợi nhuận ngắn hạn từ những phân khúc khách hàng không phải là mục tiêu, thay vì cùng với khách hàng mục tiêu tạo ra giá trị bền vững và khi đó tổ chức, khách hàng sẽ cùng chia sẻ lợi ích lớn hơn rất nhiều.

Một nơi để gắn bó

Quay trở lại thời điểm năm 2014 khi ông trở thành tổng giám đốc một ngân hàng nước ngoài 100% vốn tại Việt Nam, hoạt động của các ngân hàng nội rất phát triển, đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng cho nhu cầu mới. Ông đã chứng kiến một bộ phận nhân sự của ngân hàng mình chuyển sang ngân hàng trong nước, có khi nào ông nghĩ mình sẽ đầu quân cho một ngân hàng nội?

Ngay khi làm cho tổ chức nước ngoài, tôi luôn nghĩ sẽ đến giai đoạn tôi tham gia một ngân hàng nội để thử sức của mình và cũng để đóng góp những kiến thức, kinh nghiệm của mình cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Theo tôi, quan trọng là thời điểm gia nhập và chọn tổ chức phù hợp. Nếu tham gia quá sớm khi hệ thống ngân hàng chưa sẵn sàng thay đổi sẽ rất khó để thực thi được chiến lược. Tổ chức không muốn chuyển đổi thì cũng rất khó để thành công.

Hiện tại, tôi đang đảm nhiệm vị cao nhất trong Ban điều hành của OCB. Đây là tổ chức phát triển rất nhanh và thành công trong hơn 10 năm vừa qua, với tốc độ tăng trưởng liên tục, ổn định. Đặc biệt, tôi nhận thấy, đội ngũ nhân sự OCB thân thiện và rất nhiệt huyết, muốn cống hiến, xây dựng tổ chức lớn mạnh.

Chúng tôi có cùng định hướng và tham vọng khi muốn đưa OCB trở lại Top 5 ngân hàng tư nhân hiệu quả nhất tại Việt Nam trên tiêu chí lợi nhuận trước thuế và ROE (lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu).

Với sự đầu tư về nền tảng công nghệ và quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế từ rất sớm, đặc biệt là hệ thống Open API, cùng tệp khách hàng doanh nghiệp lớn chất lượng, tình hình tài chính lành mạnh, Ngân hàng có nhiều cơ hội để phát triển trong mảng bán lẻ và SME bằng việc phục vụ hệ sinh thái của các đối tác lớn và phát triển khách hàng bán lẻ/SME theo đúng phân khúc mục tiêu. Tôi tin rằng, mục tiêu trên sẽ được hiện thực hóa trong tương lai gần.

Làm tổng giám đốc một ngân hàng nước ngoài vận hành trên các quy định, chuẩn mực quốc tế chắc hẳn sẽ dễ dàng hơn khi không chỉ OCB mà các ngân hàng Việt nói chung vẫn đang tiệm cận các quy định, chuẩn mực quốc tế. Liệu điều này có làm khó ông khi điều hành trong bối cảnh ranh giới giữa đúng sai vẫn khá mong manh?

Đúng là làm việc tại ngân hàng nội phức tạp hơn nhiều so với ngân hàng ngoại. Đối với ngân hàng ngoại, chúng tôi chỉ áp dụng đúng các chuẩn mực quốc tế và nếu khách hàng không đáp ứng được, ngân hàng sẵn sàng không làm việc.

Đối với ngân hàng nội, nhiều khách hàng đang trong quá trình nâng chuẩn mực hoạt động và nếu chúng tôi không giúp khách hàng trong quá trình chuyển đổi này, họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Tôi tin, nếu mục tiêu cuối cùng là đạt đến chuẩn mực quốc tế và chúng tôi kiên định với con đường này, chúng tôi sẽ làm được. Ranh giới giữa đúng và sai rất khó cho người làm nghề ngân hàng, nhưng nếu mình có thể giữ được tâm sáng thì hy vọng sẽ đi đến đích.

Tôi luôn chia sẻ với đội ngũ của mình rằng, khi chúng ta gặp vấn đề, chúng ta phải đặt tất cả vấn đề lên bàn để cùng đánh giá và đưa ra phương án phù hợp. Nếu tiếp tục để qua một bên và không được giải quyết thì nó sẽ không tự biến mất, mà còn trở nên phức tạp hơn rất nhiều theo thời gian.

Tôi tin tưởng và kỳ vọng rằng, với nền tảng sẵn có, các ngân hàng trong nước, đặc biệt là OCB sẽ tiếp tục có những bước đi phát triển bền vững trong thời gian ngắn sắp tới, với sứ mệnh hỗ trợ hiện thực hóa ước mơ và tham vọng của người tiêu dùng, doanh nhân và doanh nghiệp tại Việt Nam, giúp họ đạt được hoài bão và sự tăng trưởng.

Nhuệ Mẫn

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/moi-hanh-trinh-can-bat-dau-voi-mot-dich-den-ro-rang-post362448.html
Zalo