Mở ngành vi mạch bán dẫn: Phải tính bài toán lâu dài
Tuy có 75 ngành đào tạo về vi mạch bán dẫn (Vật lí học, Cơ học, Khoa học vật liệu, Khoa học máy tính...) nhưng theo lãnh đạo các trường đại học, việc mở đúng ngành vi mạch bán dẫn không đơn giản. Bởi căn cứ theo các quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo hiện hành, cơ sở đào tạo phải có đúng tiến sĩ chuyên ngành vi mạch bán dẫn mới được mở ngành này.
PGS.TS Trần Công Hùng, Trường ĐH Quốc tế Sài Gòn, cho rằng, hiện nay các trường mới chỉ được mở ngành vi mạch bán dẫn dạng chuyên ngành. Nếu mở ngành vi mạch bán dẫn theo quy định của Bộ GD&ĐT, phải có tiến sĩ đúng chuyên ngành vi mạch bán dẫn. Đáp ứng được yêu cầu này, trường ĐH phải chờ thêm 10 năm nữa vì chờ đào tạo.

Sinh viên Hàn Quốc trải nghiệm tại phòng nghiên cứu của ĐH Bách khoa Hà Nội
Trước băn khoăn này, bà Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD&ĐT), khẳng định nếu chính xác tên ngành vi mạch bán dẫn, phải căn cứ vào những danh mục ngành thí điểm mà Bộ đã công bố. Tuy nhiên, Bộ GD&ĐT có quyết định mới bổ sung các ngành thí điểm. Ví dụ, 2 ĐH quốc gia có quy chế riêng, đặc thù được phép thí điểm mở ngành ngoài danh mục. Tuy nhiên, các trường ĐH khác cần phải cân nhắc.
Theo ông Đỗ Tiến Thịnh, để đào tạo nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn có chất lượng, trường ĐH phải nâng cấp cơ sở vật chất và nâng cấp trình độ giảng viên. Hiện nay, phần lớn giảng viên của Việt Nam chưa đáp ứng “đầu bài” do các doanh nghiệp đặt ra.
Ông Đỗ Tiến Thịnh, Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC), Bộ Tài chính, cho rằng, từ định hướng chiến lược của Chính phủ, có thể thấy, Việt Nam sẽ lấy công đoạn thiết kế làm lõi, trường ĐH phải đào tạo số lượng đủ lớn, đảm bảo chất lượng phục vụ thị trường trong và ngoài nước. Thứ hai, tập trung đào tạo nhân lực lắp ráp, kiểm thử, đóng gói (ATP). Đội ngũ này một nhánh xuất khẩu lao động, một nhánh phục vụ các công ty FDI tại Việt Nam như Intel, AmKor và một số tập đoàn khác đang xúc tiến đầu tư vào Việt Nam. Công đoạn sản xuất có cần nhân lực nhưng trước mắt không phải cho Việt Nam mà cho nhu cầu các nhà máy của nước ngoài.
Tuy nhiên, hạn chế hiện nay là giảng viên tại các trường ĐH của Việt Nam cơ bản chưa đáp ứng được “đầu bài” do các doanh nghiệp nước ngoài đặt ra. Vì vậy, đào tạo nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn, Việt Nam đi song song: vừa tập huấn cho giảng viên, vừa đào tạo cho người lao động, sinh viên.
Đào tạo kiểu dò đá qua sông
NIC đã đào tạo một số khóa cho giảng viên, tuy nhiên, phần lớn dưới dạng đào tạo thí điểm. Quan điểm hiện nay là đào tạo theo đặt hàng của các doanh nghiệp sử dụng lao động. “Hiện mới dò đá qua sông vì đang có quá nhiều chương trình. Ví dụ, chương trình của Hàn Quốc, Mỹ… có sự khác biệt và mỗi chương trình có điểm mạnh riêng. Chúng ta dò đá qua sông để chọn ra cái tốt nhất, phù hợp nhất”, ông Thịnh nói. Theo ông Thịnh, giáo trình là những tiêu chuẩn do doanh nghiệp đang thiếu nhân lực, cần lao động đặt ra, như TSMC (tập đoàn dẫn đầu thế giới về bán dẫn của Đài Loan, Trung Quốc), khi đó, trường ĐH Việt Nam theo chuẩn đó để giảng dạy. Đây là cách NIC đang đồng hành với các cơ sở đào tạo, tập đoàn Việt Nam. Có nghĩa là đào tạo theo chuẩn đặt hàng của doanh nghiệp. NIC đã thí điểm mô hình đào tạo giao thông thông minh, đặt hàng đào tạo giáo viên 2 năm tại Việt Nam và 2 năm làm việc cho các công ty bán dẫn của Đài Loan, Trung Quốc. Như vậy, giảng viên vừa có chuyên môn vừa biết thị trường thực tiễn, khi quay về giảng dạy cho sinh viên tại Việt Nam, họ sẽ biết những gì phù hợp với thị trường tiềm năng. “Cái khó nhất là mục tiêu đào tạo 50.000 kĩ sư nhưng 5.000 sinh viên tốt nghiệp đã thất nghiệp thì không ổn. Do đó, giải pháp mạnh là đi làm việc với nơi đặt đầu bài. Ví dụ, TP Đà Nẵng làm việc với các doanh nghiệp chuẩn bị đầu tư vào đây. Vị trí việc làm như nào, kĩ năng như thế nào để chuẩn bị đào tạo đáp ứng. Do đó, các tỉnh, thành phố khảo sát đơn vị chuẩn bị đầu tư và chúng ta có thời gian chuẩn bị”, ông Thịnh phân tích.
Với người học, đại diện NIC cho rằng cần chia ra thành các nhóm như nhóm những người đã tốt nghiệp ngành gần có thể đào tạo các khóa ngắn hạn (9 tháng trở lại) để chuyển đổi ngay và NIC đang tập trung cho nhóm này. Nhóm này làm việc cho các công ty tại Việt Nam cần nhiều nhân công lao động. Nhóm thứ hai được đào tạo bài bản dài hạn, nhiệm vụ các trường ĐH cần nâng cấp cơ sở vật chất, giảng viên. Cần có thêm phòng lab, có học bổng cho sinh viên. Chính phủ cần hỗ trợ các trường. Chính sách luôn có độ trễ nhưng tín hiệu vui hiện nay, doanh nghiệp và trường ĐH tự chạy khi nhìn thấy nhu cầu của thị trường. Tín hiệu nữa là Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá trong khoa học, Nghị quyết thí điểm của Quốc hội về khoa học công nghệ và chuyển đổi số. Trong đó có chính sách hỗ trợ các nhà máy sản xuất bán dẫn. Ông Thịnh đánh giá, Việt Nam có triển vọng, cách làm đi đúng hướng, nhưng nhanh hay chậm phụ thuộc nguồn lực Nhà nước hỗ trợ như thế nào, khả năng xúc tiến với các nước ra sao.