Miễn thuế thu nhập từ bảo hiểm, mũi tên trúng nhiều đích

Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi đang được Bộ Tài chính lấy ý kiến rộng rãi có đề xuất quy định về thu nhập được miễn thuế từ bảo hiểm. Báo Đầu tư Chứng khoán có cuộc phỏng vấn luật sư Nguyễn Khắc Thành Đạt - Đoàn luật sư TP.HCM xung quanh vấn đề này.

Luật sư Nguyễn Khắc Thành Đạt - Đoàn luật sư TP.HCM

Luật sư Nguyễn Khắc Thành Đạt - Đoàn luật sư TP.HCM

Luật sư Nguyễn Khắc Thành Đạt - Đoàn luật sư TP.HCM

Pháp luật Việt Nam đã nêu rõ các khoản thu nhập được miễn thuế TNCN, trong đó có thu nhập từ các khoản bồi thường bảo hiểm. Đây có phải là thông lệ đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung, thưa ông?

Theo tìm hiểu của tôi, một trong những khoản thu nhập được đề xuất miễn thuế, không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN tại dự thảo trên là thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ. Đề xuất này vẫn giữ nguyên, không thay đổi so với quy định cũ.

Đối với các khoản đáo hạn của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, về cơ bản, người tham gia bảo hiểm không phải chịu thuế TNCN, kể cả khi số tiền đáo hạn được nhận cao hơn số phí đã đóng cũng không phải nộp thuế cho phần chênh lệch (tức là lãi của hợp đồng bảo hiểm).

Trong trường hợp người sử dụng lao động trợ cấp tiền phí bảo hiểm (cho thêm ngoài tiền lương, tiền công) để tham gia bảo hiểm, người lao động có nghĩa vụ thanh toán 10% thuế TNCN đối với các khoản trợ cấp này như là thu nhập không thường xuyên. Còn tiền lãi của hợp đồng bảo hiểm được miễn thuế TNCN như quy định hiện hành.

Tại thị trường Mỹ, châu Âu, theo tìm hiểu của tôi, người tham gia bảo hiểm nhân thọ vẫn bị áp loại thuế này.

Tiền lãi của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN

Tiền lãi của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN

Như vậy, có phải chỉ người có thu nhập từ lãi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là được miễn thuế TNCN, trong khi người tham gia các hoạt động kinh doanh, buôn bán, đầu tư khác đều phải đóng thuế này?

Thuế TNCN có thể được hiểu là một loại thuế trực thu, là khoản tiền mà người có thu nhập phải trích nộp trong một phần tiền lương, hoặc từ các nguồn thu khác vào ngân sách nhà nước. Pháp luật hiện hành đã quy định rõ về loại thu nhập nào phải và không phải chịu thuế TNCN.

Theo đó, các loại thu nhập thuộc diện chịu thuế TNCN gồm: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; từ đầu tư vốn (tiền lãi nhận được từ việc cho vay theo hợp đồng vay hoặc thỏa thuận vay, trừ lãi tiền gửi nhận được từ các tổ chức tín dụng; cổ tức nhận được từ việc góp vốn mua cổ phần; lợi tức nhận được do tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp; thu nhập nhận được từ lãi trái phiếu, tín phiếu…).

Đối với thu nhập từ lãi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, theo quy định tại Khoản 7, Điều 4 - Luật Thuế TNCN 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014) và tại Khoản 7, Điều 4 - Nghị định số 65/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN, đây là khoản thu nhập được miễn thuế TNCN, được định nghĩa “là khoản lãi mà cá nhân nhận được theo hợp đồng mua bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp bảo hiểm. Căn cứ để xác định thu nhập miễn thuế đối với thu nhập từ lãi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là chứng từ trả tiền lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”.

Tại sao lãi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là khoản thu nhập không phải chịu thuế TNCN? Ngoài khoản thu nhập không phải chịu thuế này, người tham gia bảo hiểm nhân thọ có thể được hưởng lợi ích nào khác, cũng như tạo ra những giá trị nào?

Việc miễn thuế TNCN đối với một số loại thu nhập nhằm thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ các ngành, lĩnh vực ưu tiên phù hợp với đặc điểm, bối cảnh của nước ta, trong đó có lĩnh vực bảo hiểm.

Bên cạnh lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, còn nhiều khoản thu nhập khác cũng được miễn thuế TNCN, chẳng hạn thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, thu nhập từ kiều hối...

Khi tham gia bảo hiểm, các cá nhân/tổ chức góp phần tạo ra các giá trị đối với từng cá nhân, gia đình trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn về tài chính khi gặp phải rủi ro. Trên phạm vi xã hội, ngành bảo hiểm góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động dài hạn vốn trong nước từ những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm trong dân cư, sau đó đầu tư trở lại nền kinh tế.

Trong những năm qua, bảo hiểm nhân thọ luôn tái đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng điểm. Số liệu từ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy, 6 tháng đầu năm 2025, tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của ngành bảo hiểm đạt 901.600 tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2024, các doanh nghiệp bảo hiểm đã tái đầu tư hơn 850.075 tỷ đồng vào nền kinh tế. Tại các thị trường phát triển, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế tự chủ. Ở Mỹ, Nhật Bản hay Hàn Quốc, các tập đoàn bảo hiểm là một trong những lực lượng quan trọng thúc đẩy sáng kiến kinh tế và xã hội.

Tại Việt Nam, từ năm 2015 đến năm 2023, tỷ lệ phí bảo hiểm/GDP đã tăng dần từ 1,25% lên 2,31%, nhưng chúng ta vẫn nằm trong nhóm các thị trường có tỷ lệ tham gia bảo hiểm thấp. Trong khi ở khu vực châu Á, con số này đạt mức trung bình 4% và trên toàn thế giới là 9%, chẳng hạn Mỹ là 12,15%; Hàn Quốc là 11,69%; Singapore là 9,65%; Malaysia là 4,46%...

Dẫu vậy, có quan điểm cho rằng, doanh nghiệp bảo hiểm phải nộp thuế và số tiền đóng thuế đó sẽ được tính vào phí ban đầu mà khách hàng phải đóng khi tham gia bảo hiểm, như vậy chẳng khác nào phải chịu thuế/chi phí như các khách hàng khác. Ông nghĩ sao?

Tôi không đồng tình với quan điểm trên. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là loại hình kinh doanh được miễn thuế giá trị gia tăng (là một loại thuế gián thu, được cộng thêm vào giá/phí dịch vụ mà khách hàng sử dụng). Do vậy, khoản phí bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm thu từ khách hàng không chứa thuế giá trị gia tăng.

Đối với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư: Một tỷ lệ phần trăm nhất định từ khoản phí bảo hiểm sẽ được giữ lại cho doanh nghiệp bảo hiểm, gọi là phí ban đầu; phần trăm còn lại được đưa vào tài khoản đầu tư của khách hàng (tiền của khách hàng). Phí ban đầu là khoản phí mà người tham gia bảo hiểm phải trả cho doanh nghiệp bảo hiểm. Về bản chất, đây là một loại doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm.

Tổng cộng các loại doanh thu trừ đi tổng chi phí vận hành nếu có lãi thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và ngược lại, chưa phải nộp thuế nếu chưa có lãi. Phân tích như trên để thấy, khoản phí ban đầu không liên quan đến thuế TNCN đối với người tham gia bảo hiểm.

Thực tế, khó có thể so sánh các sản phẩm đầu tư với nhau. Thế nhưng, nhìn rộng ra, so với đầu tư chứng khoán hay bất động sản, người tham gia bảo hiểm chịu mức thuế hay chi phí nào khác cao hơn hay không? Đại lý/tư vấn viên bảo hiểm chịu mức thuế thế nào?

Do pháp luật quy định lãi từ hợp đồng bảo hiểm là thu nhập được miễn thuế nên không có căn cứ để tính ra số thuế được miễn cho người tham gia bảo hiểm, nhưng có thể khảo sát về thuế TNCN thông qua một số loại thu nhập chịu thuế khác.

Chẳng hạn, thuế suất thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp áp dụng theo biểu thuế toàn phần là 20%, đối với thu nhập từ bản quyền là 5%...

Với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, theo quy định hiện hành, mức thu thống nhất là 2% trên giá chuyển nhượng bất động sản từng lần và dự thảo Luật Thuế TNCN sửa đổi mới nhất vẫn giữ nguyên mức thu này. Trường hợp người nộp thuế không xác định hoặc không có hồ sơ để xác định giá vốn, hoặc giá mua, hoặc giá thuê và chứng từ hợp pháp xác định các chi phí liên quan làm cơ sở xác định thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng hoặc giá bán hoặc giá cho thuê lại. Trong dự thảo có xác định cách tính thuế mới cao hơn so với quy định hiện hành.

Đối với đại lý/tư vấn viên bảo hiểm, họ phải chịu thuế suất thuế TNCN 5% trên thu nhập là hoa hồng bảo hiểm. Ngoài ra, các khoản thu nhập khác sẽ được tính thuế TNCN theo lũy tiến từng phần giống như tiền lương, tiền công của người lao động.

Kim Lan thực hiện.

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/mien-thue-thu-nhap-tu-bao-hiem-mui-ten-trung-nhieu-dich-post374599.html
Zalo