Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cần đi kèm ràng buộc, tránh tình trạng 'ôm đất' chờ thời

Chiều 11/6, Quốc hội thảo luận về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.

Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Đại biểu Quốc hội (ĐB) Hà Sỹ Đồng (Đoàn Quảng Trị) bày tỏ quan điểm đồng tình với sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. Bởi trong nhiều năm qua chính sách này đã góp phần quan trọng trong việc giảm gánh nặng tài chính cho người dân, để giữ đất, giữ nghề, duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh ngày càng có nhiều rủi ro, thiên tai, dịch bệnh và giá cả biến động.

Dẫn chứng tại Quảng Trị trên 70% dân số ở nông thôn, thu nhập dựa vào sản xuất nông nghiệp, quy mô nhỏ, ông Đồng nói: “chính sách này không chỉ hỗ trợ trước mắt mà còn là giải pháp an sinh xã hội thiết thực góp phần ổn định đời sống, giảm áp lực trong ly nông và ly hương”.

Bên cạnh đó ông Đồng đề xuất, Nghị quyết cần rà soát kỹ các đối tượng được miễn thuế đất để đảm bảo công bằng và đúng mục tiêu chính sách ban hành để hỗ trợ. Việc miễn thuế nên tập trung vào người dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các hợp tác xã và hộ gia đình thực hành canh tác bền vững nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. Các tổ chức doanh nghiệp tích tụ đất, quy mô lớn mà không trực tiếp canh tác, có biểu hiệu sử dụng đất kém hiệu quả thì cần có cơ chế sàng lọc, đánh giá cụ thể, tránh tình trạng chính sách bị lợi dụng gây lãng phí ngân sách, tạo ra sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận chính sách ưu đãi.

“Cần tăng cường gắn chính sách miễn thuế với yêu cầu sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả và tuân thủ quy hoạch. Ở nhiều địa phương tình trạng bỏ đất nông nghiệp hoang hóa gia tăng do thiếu nhân lực, thu nhập thấp, thị trường thiếu ổn định, thiên tai, dịch bệnh, nhiều rủi ro cao trong sản xuất nông nghiệp. Do đó trong thời gian tới cần có chính sách hỗ trợ song song, song hành như đào tạo nông dân, tín dụng ưu đãi trong sản xuất nông nghiệp. Xây dựng chuỗi giá trị bền vững, áp dụng chính sách miễn thuế không chỉ giảm thu mà còn kích hoạt lại sự sống của nền nông nghiệp nông dân và nông thôn”, ông Đồng nói.

Đại biểu Quốc hội Thạch Phước Bình phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Đại biểu Quốc hội Thạch Phước Bình phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

ĐB Thạch Phước Bình (Đoàn Trà Vinh) nhìn nhận, trong bối cảnh nông nghiệp vẫn là nền sản xuất chủ đạo, bảo đảm sinh kế cho hơn 60% dân số và đóng vai trò trụ đỡ ổn định kinh tế xã hội, đặc biệt trong các giai đoạn khủng hoảng thì việc tiếp tục có chính sách ưu đãi, hỗ trợ thiết thực cho nông dân là cần thiết.

“Việc kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự quan tâm của Quốc hội và Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn và đời sống của người nông dân”, ông Bình nói.

Thực tế chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã phát huy tác dụng tích cực trong suốt hơn 2 thập kỷ qua, ước tính mỗi năm ngân sách miễn 7000-8000 nghìn tỷ đồng tiền thuế nhưng đổi lại giá trị sản lượng nông nghiệp tăng trưởng, ổn định an ninh lương thực, cải thiện thu nhập cho nông dân và hỗ trợ tích cực cho chương trình xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, theo ông Bình, hiện nay việc áp dụng chính sách miễn thuế còn mang tính đại trà, chưa có sự phân loại rõ ràng giữa các nhóm đối tượng, hộ nông dân sản xuất nhỏ, các hợp tác xã hoạt động thực tế, các doanh nghiệp lớn hoặc cá nhân sử dụng đất không trực tiếp sử dụng mà cho thuê lại đất thì đều được miễn thuế như nhau. Điều này dẫn đến sự thiếu công bằng, thất thu ngân sách và dễ bị lợi dụng.

Do đó ông Bình cho rằng, cần phân tầng chính sách như miễn toàn bộ cho người trực tiếp sản xuất, giảm hoặc giữ nguyên mức thuế cho các tổ chức cá nhân không sản xuất thực tế hoặc không có hoạt động canh tác hiệu quả.

Ông Bình cũng kiến nghị, việc miễn thuế cũng cần phải đi kèm ràng buộc như không bỏ qua đất quá 12 tháng, sử dụng đúng mục đích, có hợp đồng rõ ràng nếu cho thuê lại, bảo vệ môi trường đất và tài nguyên sinh thái. Những điều kiện này là cần thiết để tránh tình trạng “ôm đất” chờ thời, đất không sản xuất vẫn được hưởng ưu đãi gây lãng phí nguồn lực quốc gia, đại biểu phân tích.

Để đảm bảo chính sách miễn thuế không trở thành hình thức, ông Bình kiến nghị cần có cơ chế giám sát chặt chẽ và minh bạch. Đề xuất Quốc hội giao Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp với báo cáo đánh giá định kỳ hai năm một lần. Các chỉ tiêu đánh giá có thể bao gồm số lượng đối tượng được miễn thuế, tình trạng sử dụng đất, hiệu quả kinh tế, giảm mức độ thất thu ngân sách. Các địa phương cần có trách nhiệm cập nhật báo cáo và giải trình khi có sai lệch hoặc lạm dụng chính sách.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng giải trình (Ảnh: Quang Vinh)

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng giải trình (Ảnh: Quang Vinh)

Phát biểu giải trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thuế và miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong những năm qua là nhằm thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời góp phần hỗ trợ trực tiếp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, góp phần khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp và góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả và việc tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn tới là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Về chủ trương tích tụ tập trung đất đai, ông Thắng cho hay, theo các Kết luận và Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị và pháp luật về đất đai hiện hành, thì các trường hợp miễn thuế tại các nghị quyết là phù hợp. Chính vì vậy, trong lần trình dự thảo này Chính phủ không đề xuất sửa đổi liên quan đến đối tượng hay phạm vi miễn thuế. Dự thảo Nghị quyết vẫn tiếp tục kế thừa các đối tượng đã được rà soát tại các nghị quyết của Quốc hội trước đây.

Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về đất đai thì nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai và các cái chế tài xử lý vi phạm về quản lý, sử dụng đất do Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan có chức năng quản lý đất đai tại địa phương.

Để khắc phục tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp, theo ông Thắng, tại khoản 7 Điều 81 của Luật Đất đai 2024 đã có quy định rõ việc đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản không được sử dụng trong thời gian 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời gian 18 tháng liên tục, đất trồng rừng không được sử dụng trong thời gian 24 tháng liên tục bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ bị thu hồi đất.

Về đánh giá tác động và thời hạn áp dụng chính sách, ông Thắng thông tin, việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 sẽ không làm giảm thu do đây là chính sách đang được thực hiện. Với đề xuất kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp như quy định hiện hành đến hết ngày 31/12/2030, số tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn là khoảng 7.500 tỷ đồng/năm.

“Đây sẽ tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua đó tạo công ăn việc làm cho người nông dân, cải thiện cuộc sống, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp để phát triển bền vững”, ông Thắng giải trình và cho rằng việc ban hành Nghị quyết là hết sức cần thiết để góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển cho nền kinh tế, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo đà tăng trưởng cho giai đoạn tiếp theo.

Việt Thắng

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/mien-thue-su-dung-dat-nong-nghiep-can-di-kem-rang-buoc-tranh-tinh-trang-om-dat-cho-thoi-10307852.html
Zalo