Miễn, giảm thuế thu nhập sẽ tạo đòn bẩy để thu hút chuyên gia quốc tế đến Việt Nam
Chính sách miễn, giảm thuế không chỉ giúp Việt Nam tăng sức hút với chuyên gia quốc tế, mà còn thúc đẩy nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao tri thức.
Trong bối cảnh quốc tế hóa giáo dục đang được đẩy mạnh, đề xuất miễn thuế thu nhập 12 tháng đầu và giảm 50% trong 29 tháng tiếp theo cho chuyên gia nước ngoài được đưa ra tại Phiên họp toàn thể lần thứ 4 của Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội. [1]
Theo ý kiến từ quản lý một số cơ sở giáo dục đại học, nếu chính sách này được thông qua, Việt Nam sẽ có thêm lợi thế trong việc thu hút đội ngũ chuyên gia quốc tế, qua đó tạo nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình quốc tế hóa giáo dục một cách thực chất và bền vững.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút chuyên gia quốc tế
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng Đào tạo Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Chính sách miễn và giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia nước ngoài, nếu được thực thi sẽ trở thành một trong những đòn bẩy quan trọng giúp Việt Nam thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi từ khắp nơi trên thế giới.
Theo thầy Nhân, Việt Nam hiện đang ở giai đoạn phát triển đòi hỏi sự tiến bộ nhanh chóng về tri thức và công nghệ. Muốn làm chủ các lĩnh vực then chốt như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng mới hay vật liệu tiên tiến, không thể chỉ dựa vào nội lực mà cần tận dụng tri thức, kinh nghiệm và mạng lưới quốc tế của các nhà khoa học hàng đầu.
Tuy nhiên, cho đến nay, việc tiếp cận đội ngũ chuyên gia này tại Việt Nam mới chủ yếu dừng ở các hoạt động hợp tác ngắn hạn như hội thảo, dự án nghiên cứu hay chương trình liên kết. Việc tạo điều kiện để họ đến nước ta làm việc dài hạn, trực tiếp chuyển giao tri thức và tham gia các chương trình nghiên cứu chiến lược vẫn chưa được đẩy mạnh.
“Trong bối cảnh cạnh tranh nhân lực chất lượng cao diễn ra trên toàn cầu, những ưu đãi như miễn và giảm thuế có thể xem là cú hích quan trọng, giúp Việt Nam tăng sức hấp dẫn và cải thiện khả năng cạnh tranh trong thu hút chuyên gia quốc tế”, thầy Nhân khẳng định.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân, thu hút chuyên gia quốc tế không chỉ đơn giản là mời họ đến giảng dạy hoặc tư vấn, mà quan trọng hơn là tạo ra một môi trường mà ở đó họ có thể phát huy tốt nhất năng lực nghiên cứu và sáng tạo.
Trên thực tế, quốc tế hóa giáo dục không thể tách rời quốc tế hóa hoạt động khoa học - công nghệ. Và để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, Việt Nam phải đặt mục tiêu thu hút nhân tài quốc tế như một chiến lược dài hạn chứ không phải những hoạt động đơn lẻ.
Trưởng phòng Đào tạo Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản lớn như thủ tục hành chính phức tạp, cơ chế tài chính thiếu linh hoạt, sự chênh lệch về điều kiện nghiên cứu giữa các cơ sở giáo dục. Những hạn chế này khiến nhiều trường dù có nhu cầu nhưng vẫn chưa đủ điều kiện cần thiết để thu hút và giữ chân chuyên gia quốc tế.

Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng Đào tạo Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.
Trong khi đó, theo quan điểm của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, đề xuất miễn thuế thu nhập cá nhân 12 tháng và giảm 50% trong 29 tháng tiếp theo là một giải pháp cấp thiết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút chuyên gia quốc tế.
Hơn hết, trong bối cảnh các quốc gia trong khu vực liên tục đưa ra nhiều ưu đãi mạnh mẽ cho đội ngũ nhân lực trình độ cao, việc có thêm chính sách thuế hấp dẫn sẽ giúp Việt Nam trở thành điểm đến đáng cân nhắc hơn, đặc biệt trong các lĩnh vực mũi nhọn như kỹ thuật, công nghệ, bán dẫn hay trí tuệ nhân tạo.
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu, khả năng thu hút chuyên gia nước ngoài của Việt Nam vẫn còn hạn chế do nhiều rào cản tồn tại trong thời gian dài. Các thủ tục hành chính và pháp lý trước đây còn khá phức tạp, chính sách đãi ngộ nhìn chung chưa thật sự cạnh tranh so với các quốc gia trong khu vực. Cũng như hạ tầng và điều kiện nghiên cứu ở nhiều cơ sở giáo dục chưa đồng bộ, đặc biệt là phòng thí nghiệm hiện đại và các cơ chế hỗ trợ nghiên cứu.
Bên cạnh đó, hệ sinh thái học thuật quốc tế trong nước vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra các cơ hội hợp tác dài hạn.
Vì vậy, nếu chính sách ưu đãi thuế được triển khai đồng bộ với các cơ chế đặc thù mới trong Dự thảo Nghị quyết về chính sách đặc thù, đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đây sẽ là nền tảng quan trọng giúp Việt Nam thu hút và giữ chân nhân tài toàn cầu, phục vụ các mục tiêu phát triển giáo dục đại học và khoa học - công nghệ trong giai đoạn tới.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng. Ảnh: website nhà trường.
Đánh giá từ thực tế, thầy Hiếu khẳng định việc có thêm nhiều chuyên gia nước ngoài chắc chắn sẽ góp phần nâng tầm chất lượng đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam. Các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài sẽ mang theo tri thức mới, kinh nghiệm quốc tế, phương pháp giảng dạy tiên tiến, và đặc biệt là khả năng kết nối với các mạng lưới nghiên cứu toàn cầu.
Điều này giúp các chương trình đào tạo được cập nhật hơn, các nhóm nghiên cứu trở nên mạnh và chuyên sâu hơn, đồng thời mở ra cơ hội chuyển giao công nghệ, đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh và đồng công bố khoa học.
“Tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, hợp tác với chuyên gia quốc tế đang được xem là một trong những trụ cột chiến lược trong giai đoạn sắp tới. Nhà trường đã triển khai nhiều hoạt động như mời giảng viên quốc tế giảng dạy các học phần chuyên môn, tổ chức seminar và workshop chuyên đề, mời chuyên gia tham gia đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, phát triển phòng thí nghiệm chung và hợp tác trong các dự án Erasmus+, AUF, cũng như các chương trình hợp tác với Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ và nhiều đối tác khác.
Về định hướng thu hút nhân tài, nhà trường chú trọng xây dựng môi trường học thuật cởi mở, minh bạch để chuyên gia có thể phát huy tối đa năng lực, phát triển các chương trình đào tạo quốc tế và nhóm nghiên cứu mạnh nhằm tạo ra tiềm năng hợp tác lâu dài. Đồng thời, đơn vị thiết lập các cơ chế hỗ trợ linh hoạt về nơi ở, điều kiện làm việc, thủ tục pháp lý và triển khai đề tài dự án”, thầy Hiếu thông tin.
Ưu đãi thuế chưa đủ để giữ chân chuyên gia, nhà khoa học quốc tế
Không thể phủ nhận rằng, việc bổ sung các chính sách ưu đãi sẽ giúp Việt Nam tạo ra điều kiện và lợi thế để thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học trên thế giới. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân, dù chính sách có tốt đến đâu, nếu quá trình triển khai không thuận lợi thì hiệu quả sẽ khó đạt được.
Thực tế việc tiếp nhận, tuyển dụng và làm việc với chuyên gia quốc tế diễn ra tại các trường đại học và viện nghiên cứu. Do đó, thầy Nhân cho rằng để chính sách miễn - giảm thuế thực sự đi vào thực tiễn, cần có hướng dẫn chi tiết, cơ chế hỗ trợ pháp lý rõ ràng và thủ tục minh bạch, giúp các trường dễ dàng áp dụng.
Bên cạnh các ưu đãi về thuế, điều kiện để chuyên gia quốc tế chấp nhận làm việc tại Việt Nam là môi trường nghiên cứu đủ mạnh và đủ hấp dẫn. Họ cần hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, không gian học thuật sáng tạo, cơ chế tài chính linh hoạt, và quan trọng nhất là sự bảo đảm rằng các ý tưởng khoa học của họ có thể được triển khai, ứng dụng và từng bước chuyển hóa thành các sản phẩm thực tiễn.
Hiện nay, nhiều trường đại học cũng đang nỗ lực mời gọi chuyên gia nước ngoài, nhưng hình thức phổ biến chủ yếu là giảng viên thỉnh giảng, chỉ tham gia một số học phần chuyên đề hoặc thực hiện báo cáo chuyên đề ngắn hạn. Các chương trình này mang tính lý thuyết nhiều hơn, còn việc triển khai nghiên cứu thực tiễn vẫn rất hạn chế.
Thực tế, các chuyên gia thường chỉ đến trao đổi trong vài buổi, chưa thể ở lại lâu dài để tham gia nghiên cứu trực tiếp. Thêm vào đó, thủ tục pháp lý để họ làm việc lâu dài tại Việt Nam vẫn còn phức tạp, trong khi khả năng chi trả mức lương phù hợp cũng là một thách thức đối với các trường.
Ngoài ra, ngân sách và kinh phí hạn chế cũng khiến các cơ sở giáo dục khó có khả năng mời được những chuyên gia nổi tiếng, có ảnh hưởng trong lĩnh vực. Trong khi cơ chế hỗ trợ từ các đơn vị quản lý cũng chưa đủ linh hoạt để triển khai các dự án nghiên cứu lớn.
Vì vậy, thầy Nhân mong muốn Nhà nước sẽ có cơ chế hỗ trợ trực tiếp, đặc biệt đối với những chuyên gia then chốt trong lĩnh vực công nghệ hoặc các trường đại học hàng đầu, nhằm tạo điều kiện để các trường có thể mời họ tham gia nghiên cứu, đồng thời hỗ trợ một phần chi phí lương bổng và đầu tư cơ sở vật chất.

Khả năng chi trả lương cho đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học quốc tế vẫn là một thách thức đối với nhiều cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam. Ảnh minh họa: iuh.edu.vn
Cùng quan điểm, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu cũng nhấn mạnh rằng, bên cạnh các ưu đãi về thuế, điều kiện nghiên cứu bao gồm phòng thí nghiệm, hạ tầng, dữ liệu và môi trường học thuật mở mới là yếu tố quyết định đối với phần lớn chuyên gia quốc tế.
“Đây hiện vẫn là điểm yếu của Việt Nam và cần được cải thiện song song với các chính sách ưu đãi”, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu cho hay.
Theo thầy Hiếu, các chuyên gia thường quan tâm đến khả năng tiếp cận thiết bị hiện đại, nguồn lực nghiên cứu ổn định, cơ chế chia sẻ hạ tầng và tự do học thuật trong triển khai đề tài. Dự thảo Nghị quyết về chính sách đặc thù, đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã bước đầu đề cập đến những nội dung này, như chính sách phòng thí nghiệm dùng chung, chuyển đổi số trong giáo dục, phát triển hệ thống dữ liệu và liên kết nghiên cứu giữa các cơ sở….Đây là hướng đi đúng, nhưng để tránh hình thức, cần bổ sung thêm một số giải pháp thiết thực, như cơ chế tài trợ nghiên cứu ổn định và cạnh tranh, cho phép chuyên gia quốc tế chủ trì hoặc đồng chủ trì đề tài tại Việt Nam.
Thứ hai, cần tăng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục trong tuyển dụng, trả lương và sử dụng nguồn lực, để mỗi đơn vị có thể chủ động xây dựng gói thu hút chuyên gia phù hợp. Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong nghiên cứu, từ phê duyệt đề tài, mua sắm thiết bị đến ký kết hợp đồng hợp tác quốc tế.
Cuối cùng, xây dựng hệ sinh thái học thuật mở, khuyến khích liên kết nhóm nghiên cứu, đồng công bố, chia sẻ dữ liệu và thiết bị. Đồng thời áp dụng cơ chế đánh giá dựa trên hiệu quả thực chất, thay vì chỉ dựa vào số lượng hoạt động hay hình thức tiếp nhận chuyên gia.
“Nếu các chính sách ưu đãi thuế đi kèm với việc nâng cấp hạ tầng nghiên cứu và tăng cường học thuật mở, Việt Nam sẽ tạo ra một môi trường đủ hấp dẫn để thu hút và giữ chân chuyên gia quốc tế một cách bền vững, thay vì mang tính phong trào”, thầy Hiếu khẳng định.
Về phía các cơ sở giáo dục đại học, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu nhấn mạnh rằng, để chính sách thu hút chuyên gia quốc tế phát huy hiệu quả, bản thân các trường phải chủ động thay đổi.
Trước hết, cần cải thiện môi trường làm việc và học thuật, tạo ra không gian học thuật mở, minh bạch, tôn trọng tự do nghiên cứu và bảo đảm chuyên gia được tiếp cận hạ tầng, dữ liệu cũng như phòng thí nghiệm hiện đại - yếu tố mang tính quyết định hơn cả các ưu đãi về thuế.
Đồng thời, các trường cần tái cấu trúc bộ máy theo hướng tinh gọn, linh hoạt, giảm thủ tục nội bộ và trao quyền nhiều hơn cho các khoa, nhóm nghiên cứu trong việc đề xuất hợp tác, ký kết và sử dụng chuyên gia, tạo ra một môi trường quản trị thông thoáng, nơi chuyên gia cảm nhận được sự hỗ trợ và tôn trọng.
Bên cạnh đó, cơ chế sử dụng chuyên gia cũng phải rõ ràng và hiệu quả, đảm bảo họ đóng vai trò thực chất trong giảng dạy các học phần mũi nhọn, đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, tham gia nhóm nghiên cứu, phát triển phòng thí nghiệm, viết dự án, thay vì chỉ dừng lại ở các hoạt động thường xuyên như seminar hay workshop.
“Tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, để giữ chân chuyên gia sau khi các ưu đãi kết thúc và tránh tình trạng “đến rồi đi”, nhà trường tập trung vào việc tạo giá trị học thuật lâu dài, gắn kết chuyên gia với các nhóm nghiên cứu, dự án quốc tế và phòng thí nghiệm trọng điểm để họ thấy được cơ hội phát triển khoa học bền vững tại Việt Nam.
Đồng thời, nhà trường tạo mọi điều kiện hỗ trợ linh hoạt về môi trường làm việc, chỗ ở, sinh hoạt học thuật, đồng hướng dẫn và đồng công bố quốc tế, xây dựng lộ trình hợp tác dài hạn từ 2–5 năm, trong đó vai trò của chuyên gia được xác định rõ ràng và đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu – đào tạo.
Khi cảm nhận được môi trường làm việc chuyên nghiệp, ý nghĩa và lâu dài, các chuyên gia sẽ lựa chọn ở lại cống hiến ngay cả khi ưu đãi thuế không còn” thầy Hiếu nêu dẫn chứng.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=96755
































