Lý luận, Phê bình văn học: Sự chuyển biến trong môi trường số hóa
Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng xã hội trên toàn cầu, hoạt động lý luận, phê bình văn học Việt Nam hiện nay đang có những chuyển biến rõ nét. Nhiều ý kiến cho rằng, 'phê bình mạng' thực sự đang có những tác động không nhỏ ở cả 2 mặt tích cực và tiêu cực đến đời sống sáng tác văn học hôm nay...
Ngày 29/10 vừa qua, Viện Văn học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức hội thảo khoa học "Lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ Đổi mới 1986 đến nay: Thực trạng và phát triển" do TS. Vũ Thị Thu Hà làm chủ nhiệm đề tài.
Hội thảo này nằm trong hệ đề tài nghiên cứu thuộc "Chương trình nghiên cứu tổng kết văn học Việt Nam 40 năm sau Đổi mới" do Viện Văn học chủ trì, nhằm đánh giá, tổng kết các vấn đề lý luận và thực tiễn văn học Việt Nam sau 40 năm Đổi mới.
Chính vì thế, hội thảo đã thu hút sự quan tâm, tham gia của đông đảo các học giả, nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học có uy tín như: GS. Phong Lê, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh, PGS.TS Nguyễn Văn Dân, TS. Hoàng Phong Tuấn, TS. Hà Thanh Vân, TS. Nguyễn Thanh Tâm, nhà phê bình Nguyễn Hoài Nam...
Tại đây, bên cạnh sự ghi nhận những đóng góp quan trọng của hoạt động lý luận, phê bình văn học từ sau Đổi mới, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình đã thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn tồn tại, những thách thức đặt ra đối với công tác lý luận và phê bình văn học hiện nay.

Hội thảo khoa học có nhiều ý kiến thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại và thách thức trong lý luận, phê bình văn học.
TS. Đặng Xuân Thanh - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nhận định: "Công cuộc Đổi mới năm 1986 là bước ngoặt mang tính lịch sử, đánh dấu sự chuyển mình toàn diện và sâu sắc của đất nước trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và khoa học. Từ Đổi mới, đất nước chúng ta đã mở ra một thời kỳ phát triển năng động, sáng tạo và hội nhập quốc tế mạnh mẽ.
Trong bức tranh Đổi mới chung đó, văn học Việt Nam, đặc biệt là lý luận, phê bình văn học đã có những chuyển biến quan trọng cả về tư duy, nhận thức, phương pháp lẫn cách tiếp cận. Các nhà nghiên cứu, phê bình, kế thừa và tiếp nhận những thành tựu lý luận, góp phần tạo nên một không gian học thuật đa chiều, cởi mở, phản ánh trung thực, sâu sắc và nhân văn những vấn đề lý luận và thực tiễn đời sống con người Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập...".
Còn PGS.TS Phan Trọng Thưởng - nguyên Viện trưởng Viện Văn học cho rằng: "Từ Đổi mới, chúng ta có cơ hội tiếp xúc, tiếp thu, tiếp biến hầu hết các lý thuyết nghệ thuật trên thế giới. Cho đến giờ, Việt Nam giống như một "cái chợ lý thuyết", một "bãi thử lý thuyết". Đúng - sai, hay - dở chưa nói, nhưng sự phong phú, đa dạng là điều không thể phủ nhận. Dưới tác động của lý thuyết nghệ thuật này không chỉ tạo ra sự thay đổi về tri thức lý luận, về tư duy, phương pháp, cách thức tiếp cận, diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống văn học...".
Tuy nhiên, nếu đặt trong tương quan với cuộc sống có quá nhiều sự vận động, nhiều kênh thông tin giải trí như hiện nay, có thể thấy hoạt động lý luận, phê bình văn học hiện nay cũng đã lộ rõ nhiều thiếu khuyết, sự chậm chạp, thiếu quyết đoán trong việc tiếp cận với sự thay đổi của đời sống văn học. Nếu trước đây, nhà phê bình là người "bắc cầu" giữa tác giả với công chúng, đưa ra những nhận định, đánh giá công tâm, khách quan về một tác phẩm nào đó, thì ngày nay vai trò này đang có sự thay đổi mạnh bởi sự phát triển của công nghệ, sự tham gia của mạng xã hội.
Tại cuộc hội thảo này, nhiều ý kiến của các học giả đã chỉ ra những nghịch lý của đời sống văn học đương đại như: Sáng tác bùng nổ với nhiều cuộc thi nhưng thiếu người đọc, người phê bình có tính hệ thống và chuyên nghiệp, trong khi công chúng lại bị cuốn vào dòng chảy mạng xã hội và nhiều loại hình giải trí khác khiến văn hóa đọc sa sút...
Các nhà nghiên cứu đồng tình với ý kiến của TS. Hà Thanh Vân khi cho rằng, từ hơn 20 năm nay, trong bối cảnh văn hóa đọc dần lép vế trước văn hóa nghe - nhìn và mạng xã hội, đời sống phê bình văn học Việt Nam thực sự đang đối mặt với "khủng hoảng kép": Vừa khủng hoảng uy tín khi tiếng nói học thuật mất dần ảnh hưởng, vừa khủng hoảng đạo đức nghề nghiệp bởi những biểu hiện "phê bình PR", "bè phái"; hay kiểu "phê bình vỗ vai, xã giao, điểm sách"... khiến giá trị thực sự của phê bình bị đảo lộn, "mất thiêng", không có sự quyết đoán mang tính "cầm cân nảy mực", khiến tiếng nói học thuật dần mất ảnh hưởng, vị thế trước công chúng...
Trước những biến động của thời đại số, hoạt động lý luận, phê bình văn học Việt Nam cần được nhìn nhận không chỉ như một hoạt động đánh giá tác phẩm, mà còn là cầu nối giữa người sáng tác và công chúng.
Muốn thoát khỏi "khủng hoảng kép", phê bình phải trở lại với tinh thần đối thoại, khách quan và nhân văn - nơi người viết, người đọc và người sáng tác cùng chia sẻ trách nhiệm gìn giữ giá trị thẩm mỹ và chân lý nghệ thuật. Chỉ khi văn hóa phê bình được khơi thông và văn hóa đọc được phục hồi, đời sống văn học, trong đó bao gồm cả hoạt động lý luận, phê bình mới có thể tìm lại vị thế xứng đáng trong đời sống xã hội hôm nay.
GS. Phong Lê:

"Nhìn vào các lĩnh vực nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc, điện ảnh mới thấy thương cho văn học, khi mỗi cuốn sách in ra chỉ 300, 500, 1.000 hoặc nhiều lắm là 2.000 bản mà vẫn khó bán trên tổng số 100 triệu dân. Cố nhiên, nếu là sách hay (số này rất hiếm và thường là sách dịch) và được quảng bá tốt thì được in nhiều hơn. Tính số đầu sách được in với số đầu sách được giới thiệu trên các báo thì tỉ lệ vô cùng bất cập, có nghĩa là chìm trong im lặng.
Có lẽ, rồi cũng phải quen với việc các bạn trẻ sẵn sàng bỏ hàng triệu đồng để mua 1 vé xem trình diễn của các "sao" trong và ngoài nước, nhưng lại ngại ngần khi bỏ ra 50 ngàn cho 1 cuốn sách, chưa hẳn là văn học mà là sách dạy kỹ năng sống, nghệ thuật kinh doanh, làm đẹp hoặc truyện tranh.
Không phải giới sáng tác hay phê bình thiếu người tài, hay sáng tác không còn hấp dẫn. Đội ngũ sáng tác hiện nay có nhiều tác giả thuộc thế hệ 7x trở về sau, không cần đến phê bình, họ vẫn có nhiều cách đến với bạn đọc, khi công nghệ thông tin và "văn hóa mạng" làm được rất nhanh và rất rộng việc quảng bá cho một tên tuổi nào đấy, không kể khi tác giả đã là một "thương hiệu".
Vậy thì, nếu phê bình là việc không cần thiết nữa, hoặc không cần thiết lắm, khi phê bình chỉ là, hoặc nên là, một giao hảo tri kỷ giữa người viết và người đọc, một quan hệ "Bá Nha - Tử Kỳ thời hiện đại", thì phê bình tự nó phải biến đổi cho thích hợp với tình thế mới...".
TS. Hà Thanh Vân:

"Bước sang thế kỷ XXI, giới nghiên cứu Việt Nam nhận thấy một cuộc "khủng hoảng kép" trong đời sống phê bình, đó là: Khủng hoảng uy tín vì phê bình học thuật mất dần ảnh hưởng trước công chúng; tiếng nói chuyên môn bị lấn át bởi mạng xã hội. Khủng hoảng đạo đức nghề nghiệp khi xuất hiện tình trạng phê bình "bè phái", "PR trá hình", "đánh bóng tên tuổi", hoặc sao chép, trích dẫn sai lệch...
Để vượt qua khủng hoảng này, cần tái định vị vai trò phê bình theo 3 hướng: Chuyển từ phán xét sang đối thoại để phê bình không chỉ khen/chê mà giúp công chúng hiểu hơn bản chất sáng tạo; Chuyển từ "đóng kín" sang "liên ngành" với sự cần thiết mở rộng phê bình sang các lĩnh vực điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật thị giác, truyền thông; Chuyển từ độc quyền sang chia sẻ với sự khuyến khích sự tham gia của công chúng, nhưng trên nền tảng tri thức và đạo đức nghề nghiệp rõ ràng.
Mối quan hệ giữa lý luận - phê bình - sáng tác và công chúng chỉ thật sự có ý nghĩa khi hướng đến đối thoại hai chiều. Công chúng không chỉ là người tiếp nhận thụ động mà còn là đối tác tri thức trong quá trình kiến tạo giá trị của tác phẩm văn học. Muốn vậy, cần phải phát triển giáo dục thẩm mỹ và văn hóa đọc, giúp công chúng, đặc biệt là những người trẻ có năng lực cảm thụ và phản biện. Công chúng cũng phải học cách tiếp nhận có chọn lọc, không chạy theo "hiệu ứng đám đông"...".






























