Lý do Iran không dễ từ bỏ chương trình hạt nhân dù bị tấn công dữ dội

Trải qua gần 70 năm phát triển với nhiều lần bị gián đoạn, chương trình hạt nhân của Iran đã trở thành một phần gắn chặt với lịch sử, an ninh và bản sắc quốc gia. Dù bị Mỹ và Israeltấn công dữ dội, Tehran nhiều khả năng sẽ không từ bỏ con đường này.

Tổng thống Donald Trump tuyên bố một “chiến thắng quân sự ngoạn mục”, cho rằng bom Mỹ đã phá hủy những trụ cột then chốt trong chương trình hạt nhân của Iran. Nhưng ngay cả khi điều đó đúng, chiến dịch này có thể vẫn chưa giáng đòn chí tử vào một chương trình đã đan xen sâu sắc với lịch sử, văn hóa, an ninh và bản sắc quốc gia của Iran.

Từ khi bắt đầu chương trình hạt nhân dân sự đầy tham vọng năm 1974 dưới thời Shah (nhà vua) Mohammad Reza Pahlavi, các lãnh đạo Iran đã coi đây là biểu tượng tự hào về vị thế dẫn đầu của nước này trong thế giới Hồi giáo, là minh chứng cho cam kết đối với khoa học và là “bảo hiểm chiến lược” trong một khu vực đầy hiểm họa.

Nhà máy điện hạt nhân Bushehr của Iran. Ảnh: Reuters

Nhà máy điện hạt nhân Bushehr của Iran. Ảnh: Reuters

Điều từng đúng với chế độ quân chủ trước cách mạng, vẫn đúng dưới thời các nhà lãnh đạo sau năm 1979 và theo nhận định của nhiều chuyên gia, sẽ vẫn đúng với bất kỳ chính quyền nào ở Iran trong tương lai.

“Trong ngắn hạn, dưới áp lực cực lớn, Iran có thể buộc phải nhượng bộ. Nhưng về lâu dài, bất kỳ nhà lãnh đạo Iran nào cũng sẽ đi đến kết luận rằng họ phải có năng lực răn đe hạt nhân”, ông Roham Alvandi, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Lịch sử Iran tại Trường Kinh tế London (LSE), nhận định.

Việc Mỹ tham gia chiến dịch quân sự cùng Israel đã khiến cái giá mà Iran phải trả khi từ chối hạn chế chương trình làm giàu urani trở nên đắt đỏ hơn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, bất kể cuộc đối đầu này kết thúc ra sao, hành động của Mỹ có thể lại càng khiến Tehran quyết tâm theo đuổi năng lực hạt nhân mang tính răn đe.

Khối kiến thức không thể xóa bỏ

Các đợt không kích của Mỹ được cho là đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho các cơ sở làm giàu urani tại Natanz và Fordow, cũng như khu nghiên cứu tại Isfahan. Trước đó, Israel đã không kích làm thiệt mạng nhiều nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của Iran và phá hoại hạ tầng kỹ thuật. Tổng thể các đòn tấn công này có thể khiến chương trình hạt nhân của Iran bị chậm lại nhiều năm.

Tuy vậy, bom đạn không thể xóa bỏ khối kiến thức mà Iran đã tích lũy trong gần 70 năm kể từ khi ký thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự đầu tiên với chính quyền Tổng thống Dwight D. Eisenhower của Mỹ năm 1957. Khi đó, Mỹ còn khuyến khích các nước theo đuổi nghiên cứu hạt nhân vì mục đích hòa bình trong khuôn khổ sáng kiến “Nguyên tử vì Hòa bình” của ông Eisenhower.

Năm 1967, với sự hỗ trợ từ Mỹ, Iran xây dựng lò phản ứng nghiên cứu đầu tiên ở Tehran. Cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Một năm sau, Iran ký Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT), động thái biểu tượng cho mong muốn gia nhập “câu lạc bộ phương Tây” dưới thời Shah Pahlavi.

Sau cú sốc dầu mỏ năm 1973, với nguồn thu dồi dào, Iran đẩy mạnh chương trình hạt nhân dân sự, bao gồm cả năng lực làm giàu nội địa. Hàng chục sinh viên Iran được gửi sang Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) để học chuyên ngành kỹ thuật hạt nhân.

Dự án hạt nhân, theo Shah Pahlavi, là biểu tượng cho tham vọng đưa Iran trở thành cường quốc hàng đầu khu vực. Nhưng điều này lại khiến Washington lo ngại rằng Tehran có thể tái xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng để chế tạo vũ khí.

“Đây là biểu tượng cho vị thế cường quốc mà Iran theo đuổi, với khả năng chuyển đổi linh hoạt sang mục đích quân sự nếu bị đe dọa, chẳng hạn như từ Iraq”, Giáo sư Alvandi, tác giả cuốn “Nixon, Kissinger và Shah: Mỹ và Iran trong Chiến tranh Lạnh”, lý giải.

Thậm chí, Shah Pahlavi từng tuyên bố Iran sẽ có vũ khí hạt nhân “chắc chắn và sớm hơn người ta nghĩ” – một tuyên bố mà ông sau đó phải bác bỏ.

Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là Henry Kissinger đã tìm cách áp đặt các điều kiện kiểm soát nghiêm ngặt, nhưng bị Shah bác bỏ. Kết quả là các hợp đồng xây dựng ngành hạt nhân béo bở rơi vào tay Pháp và Đức, thay vì Mỹ. Năm 1975, các công ty Đức bắt đầu xây nhà máy điện hạt nhân Bushehr. Dự án bị đình trệ sau Cách mạng Hồi giáo năm 1979.

Từ chương trình xa xỉ đến công cụ răn đe

Sau năm 1979, ban đầu các lãnh đạo Iran xem chương trình hạt nhân là biểu tượng xa xỉ của chế độ cũ và cho “đóng băng”. Tuy nhiên, đến cuối cuộc chiến Iran - Iraq (1980 - 1988), sau khi nhà máy Bushehr bị không kích nhiều lần và Iraq dùng vũ khí hóa học trên chiến trường, Tehran thay đổi lập trường: chương trình hạt nhân là công cụ răn đe cần thiết. (Nhà máy điện hat nhân Bushehr sau đó được Nga giúp khôi phục và vẫn đang vận hành.)

“Ở một khía cạnh nào đó, tính toán của Iran dưới thời Cộng hòa Hồi giáo chẳng khác gì thời của Shah – cả hai đều coi đó là biểu tượng của sức mạnh và thể diện quốc gia”, ông Ray Takeyh, chuyên gia về Iran tại Hội đồng Đối ngoại Mỹ (CFR) nhận định.

Chương trình này dần gắn liền với chủ nghĩa dân tộc cấp tiến. Nó trở thành biểu tượng trong các cuộc tuần hành do nhà nước tổ chức. Chương trình phát triển song song theo hai hướng: dân sự (với đóng góp không đáng kể cho nhu cầu năng lượng quốc gia) và bí mật làm giàu – yếu tố đặt Iran vào thế đối đầu trực diện với Israel và Mỹ.

Hàng chục năm đầu tư và vun đắp đã khiến chương trình hạt nhân trở thành điều khó có thể xóa bỏ dưới bất kỳ chính quyền nào tại Tehran.

“Chính quyền kế nhiệm, dù họ là ai và lên nắm quyền bằng cách nào, cũng sẽ có quan điểm tương tự. Họ sẽ coi khoa học hạt nhân là đỉnh cao của nghiên cứu khoa học và sẽ tiếp tục xây dựng một chương trình hạt nhân có quy mô nhất định, dựa trên năng lực nội tại của chính Iran. Câu hỏi là liệu chương trình đó có được Mỹ chấp nhận hơn không, giống như từng phần nào chấp nhận với tham vọng của Shah”, ông Takeyh nêu quan điểm.

Hoàng Phạm/VOV.VN Theo NY Times

Nguồn VOV: https://vov.vn/the-gioi/quan-sat/ly-do-iran-khong-de-tu-bo-chuong-trinh-hat-nhan-du-bi-tan-cong-du-doi-post1209593.vov
Zalo