Luật GDĐH cần định nghĩa rõ về bằng kỹ sư để tăng lợi thế của các ngành kỹ thuật

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn, quy định rõ về giá trị của bằng kỹ sư vừa giúp đảm bảo quyền lợi cho sinh viên, vừa tạo cơ hội việc làm rộng mở.

Tại Khoản 1 và Khoản 6, Điều 38, Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học quy định: “Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và văn bằng trình độ tương đương. Chính phủ ban hành hệ thống văn bằng giáo dục đại học và quy định văn bằng, chứng chỉ đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù”.

Hiện nay, các trường đại học đào tạo bậc kỹ sư với thời gian học kéo dài từ 4,5 đến 5 năm, lâu hơn so với bậc cử nhân do yêu cầu khối lượng kiến thức chuyên sâu hơn. Tuy nhiên, Luật số 34 chưa định nghĩa rõ về bằng kỹ sư, nên nhiều ý kiến cho rằng sự khác biệt giữa bằng kỹ sư và bằng cử nhân chưa được thể hiện rõ ràng. Từ đó, sinh viên khối ngành kỹ thuật thường gặp khó khăn trong việc chưa được phản ánh đúng trình độ đào tạo chuyên sâu.

Quy định rõ về giá trị của bằng kỹ sư là yêu cầu cấp thiết

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, việc Luật chưa quy định rõ ràng về giá trị tương đương của bằng kỹ sư so với các bằng cấp chuyên sâu đặc thù đã gây ra một số khó khăn trong việc cấp bằng và đảm bảo quyền lợi cho sinh viên. Theo đó, sinh viên ngành kỹ thuật có thể gặp bất lợi khi so sánh với các ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù khác trong một số lĩnh vực hoặc xét tuyển học tiếp lên bậc cao hơn.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: website nhà trường)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: website nhà trường)

Theo thầy Hoàn, một số chương trình đào tạo quốc tế hoặc chương trình học bổng có yêu cầu rõ về hệ thống bằng cấp, nhưng vì Luật chưa xác định chính thức, sinh viên có thể gặp khó khăn khi chứng minh giá trị tương đương của bằng kỹ sư trong các hồ sơ xét tuyển du học hoặc công nhận bằng cấp ở nước ngoài.

Bên cạnh đó, vì chưa có sự công nhận tương đương giữa bằng kỹ sư và các bằng chuyên sâu đặc thù nên sinh viên có thể bị ảnh hưởng về mức lương và quyền lợi sau khi tốt nghiệp.

“Nhà trường nhận thấy việc quy định rõ về giá trị của bằng kỹ sư là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho sinh viên và nâng cao vị thế của ngành kỹ thuật trong hệ thống giáo dục đại học. Nếu không có sự điều chỉnh phù hợp, sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật dễ bị thiệt thòi so với các ngành đào tạo đặc thù khác như y khoa.

Do đó, nhà trường mong muốn chính thức công nhận bằng kỹ sư là văn bằng chuyên sâu có giá trị tương đương với các ngành chuyên sâu đặc thù. Bên cạnh đó, nhà trường sẽ xác định chuẩn đầu ra riêng cho bằng kỹ sư thay vì xếp chung với bằng cử nhân kỹ thuật. Điều này sẽ giúp phân biệt rõ ràng giữa hai loại bằng cấp, phản ánh đúng trình độ đào tạo chuyên sâu của sinh viên kỹ thuật”, thầy Hoàn bày tỏ.

Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phong Điền - Phó Giám đốc Đại học Bách Khoa Hà Nội cho biết, hiện nay mặc dù trong Luật số 34/2018/QH14 chưa đề cập rõ về bằng kỹ sư nhưng đã có quy định dưới luật.

Cụ thể, tại Điều 14 Nghị định 99/2019/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học nêu: “Trình độ đào tạo đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù là trình độ của người đã tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù sau đây:

a) Chương trình có khối lượng học tập từ 150 tín chỉ trở lên đối với người đã tốt nghiệp trung học phổ thông và tương đương hoặc có khối lượng học tập từ 30 tín chỉ trở lên đối với người đã tốt nghiệp trình độ đại học;

b) Chương trình có khối lượng học tập từ 90 tín chỉ trở lên đối với người có trình độ tương đương Bậc 7 theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam.

Căn cứ vào quy định về điều kiện đầu vào, khối lượng học tập tối thiểu, chuẩn giảng viên, chuẩn đầu ra và các chuẩn khác trong chuẩn chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, người tốt nghiệp chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù được xếp vào bậc tương ứng trong Khung trình độ quốc gia Việt Nam”.

Theo thầy Điền, Nghị định 99 quy định văn bằng đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù thuộc hệ thống giáo dục đại học bao gồm bằng bác sĩ y khoa, bác sĩ nha khoa, bác sĩ y học cổ truyền, bằng dược sĩ, bằng bác sĩ thú y, bằng kỹ sư, bằng kiến trúc sư và một số văn bằng khác theo quy định riêng của Chính phủ, được cấp cho người tốt nghiệp chương trình đào tạo nói trên.

“Hiện tại, các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam đang đào tạo và cấp bằng kỹ sư bậc 6 hoặc bậc 7 theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Trong đó, Đại học Bách khoa Hà Nội hiện chỉ đào tạo kỹ sư chuyên sâu bậc 7. Chương trình đào tạo kỹ sư chuyên sâu được xếp vào chương trình sau đại học, có tổng thời lượng 180 tín chỉ với tổng thời gian thiết kế cho chương trình là 5,5 năm, tính từ thời điểm trúng tuyển đại học (4 năm chương trình cử nhân và 1,5 năm chương trình kỹ sư chuyên sâu).

Đến nay, nhà trường chưa có học viên tốt nghiệp kỹ sư chuyên sâu. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn được công nhận kỹ sư chuyên sâu (bậc 7) tương đương với bậc Thạc sĩ định hướng ứng dụng (cùng bậc 7) để đảm bảo đúng thực lực học viên tốt nghiệp và không bị nhầm lẫn với kỹ sư bậc 6”, thầy Điền bày tỏ.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phong Điền - Phó giám đốc Đại học Bách Khoa Hà Nội. (Ảnh: Doãn Nhàn)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phong Điền - Phó giám đốc Đại học Bách Khoa Hà Nội. (Ảnh: Doãn Nhàn)

Còn theo quan điểm Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên, bằng kỹ sư từ lâu đã là một văn bằng quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học chưa có quy định cụ thể về bằng kỹ sư, gây ra một số khó khăn cho sinh viên tốt nghiệp cũng như các cơ sở đào tạo.

Theo thầy Khoa, sinh viên theo học bằng kỹ sư sẽ mất nhiều thời gian học hơn so với người học bằng cử nhân, thường kéo dài từ 4,5 đến 5 năm. Bên cạnh đó, việc thiếu quy định cụ thể về bằng kỹ sư dẫn đến một số hệ lụy.

Thứ nhất, sinh viên gặp khó khăn trong việc công nhận bằng cấp quốc tế. Hiện nay, nhiều chương trình đào tạo quốc tế và tổ chức giáo dục nước ngoài yêu cầu phân biệt rõ ràng giữa bằng kỹ sư và bằng cử nhân. Nếu không có quy định cụ thể, sinh viên có thể gặp trở ngại khi tiếp tục học lên bậc cao hơn hoặc xin việc tại các công ty đa quốc gia.

Thứ hai, sinh viên khối ngành kỹ thuật chịu nhiều thiệt thòi hơn so với các ngành khác. Họ phải đầu tư nhiều thời gian và công sức để hoàn thành chương trình học, nhưng lại không được công nhận sự khác biệt so với người tốt nghiệp bằng cử nhân. Điều này làm giảm lợi thế cạnh tranh của họ trên thị trường lao động.

Thứ ba, việc Luật chưa quy định rõ ràng về bằng kỹ sư dẫn đến sự thiếu thống nhất trong hệ thống giáo dục. Một số thông tư và nghị định có đề cập đến bằng kỹ sư với mức độ tương đương trình độ 7 theo Khung trình độ Quốc gia. Tuy nhiên, nếu Luật không bổ sung quy định này, sẽ xảy ra mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật, gây khó khăn trong quá trình thực thi.

Góp phần đảm bảo quyền lợi cho sinh viên và nâng cao vị thế ngành kỹ thuật

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn, để tháo gỡ vướng mắc về bằng kỹ sư, Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất một số giải pháp.

Thứ nhất, nhà trường sẽ tham gia đóng góp ý kiến với cơ quan quản lý, trong đó đề xuất Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo bổ sung vào Luật Giáo dục Đại học quy định rõ ràng về giá trị tương đương của bằng kỹ sư với các bằng chuyên sâu đặc thù.

Thứ hai, nhà trường sẽ đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm xây dựng các chương trình đào tạo thực tế, giúp sinh viên nâng cao năng lực và dễ dàng được công nhận trong thị trường lao động. Từ đó, sinh viên không chỉ được tiếp cận công nghệ, kỹ năng mới mà còn mở rộng cơ hội nghề nghiệp ngay từ khi còn trên ghế nhà trường.

Thứ ba, để nâng cao giá trị bằng kỹ sư, nhà trường sẽ phát triển hệ thống chứng chỉ bổ sung, thiết kế các chương trình cấp chứng chỉ nghề nghiệp hoặc kỹ năng chuyên môn đi kèm với bằng kỹ sư để tăng giá trị bằng cấp của sinh viên khi ra trường.

“Nhà trường mong muốn có sự thay đổi rõ ràng trong quy định về giá trị của bằng kỹ sư để đảm bảo quyền lợi cho sinh viên và nâng cao vị thế ngành kỹ thuật trong xã hội. Việc công nhận bằng kỹ sư là một văn bằng chuyên sâu, nâng cao chuẩn đầu ra và tạo ra chính sách hỗ trợ phù hợp sẽ giúp sinh viên ngành kỹ thuật có cơ hội việc làm và phát triển nghề nghiệp tốt hơn”, Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị.

Còn Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên đề xuất, Nhà nước cần có những điều chỉnh và bổ sung để bảo đảm quyền lợi cho người học và tạo sự thống nhất trong hệ thống giáo dục.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên. (Ảnh: Ngân Chi)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên. (Ảnh: Ngân Chi)

“Theo tôi, Nhà nước nên xem xét, bổ sung điều khoản quy định về bằng kỹ sư trong Luật Giáo dục Đại học. Trong đó, quy định cần khẳng định bằng kỹ sư là một trình độ đào tạo riêng biệt trong lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ, có thời gian học dài hơn cử nhân và có yêu cầu đầu vào, đầu ra cao hơn.

Ngoài ra, Luật cũng nên xác định rõ bằng kỹ sư tương đương với trình độ 7 theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam, giúp thống nhất với các quy định trước đây, tránh mâu thuẫn giữa các văn bản”, thầy Khoa nêu quan điểm.

Một vấn đề đáng quan tâm hiện nay là việc thu hút sinh viên theo học ngành kỹ thuật. Hiện nay, học sinh phổ thông có xu hướng lựa chọn các ngành kinh tế, công nghệ thông tin, truyền thông hơn là các ngành kỹ thuật, vì lo ngại điều kiện làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật vất vả hơn.

Bày tỏ quan điểm về thực trạng này, thầy Khoa cho hay: “Đây không chỉ là thách thức của riêng trường tôi mà còn là bài toán chung của nhiều trường đào tạo kỹ thuật trên cả nước. Để giải quyết vấn đề này, tôi cho rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc tuyên truyền, định hướng nghề nghiệp và nhấn mạnh tầm quan trọng của ngành kỹ thuật đối với sự phát triển của đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhu cầu nhân lực ngành kỹ thuật đang rất lớn. Tại nhà trường, tỷ lệ sinh viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt từ 94-95%. Bởi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp tập trung đông đảo nên nhu cầu về nguồn nhân lực rất lớn. Do đó, nhiều công ty còn tuyển dụng sinh viên ngay từ khi thực tập, thậm chí số lượng ứng viên không đủ so với nhu cầu doanh nghiệp cần”.

Trong thời gian tới, thầy Khoa cho biết, nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyển sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, từ các chương trình tư vấn hướng nghiệp trực tiếp đến các chiến dịch quảng bá trực tuyến nhằm tiếp cận nhiều hơn với học sinh phổ thông. Đồng thời, nhà trường sẽ mở rộng hợp tác với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo đầu ra vững chắc cho sinh viên.

Thu Thủy

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/luat-gddh-can-dinh-nghia-ro-ve-bang-ky-su-de-tang-loi-the-cua-cac-nganh-ky-thuat-post249518.gd
Zalo