Luận bàn thêm về việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học
Nghị quyết 51/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18-3-2025 vừa qua đặt ra nhiệm vụ cho Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơ quan ban ngành thực hiện đề án 'Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học'.

Nếu thành thạo tiếng Anh sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm và phát triển nền kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế. Ảnh minh họa: TL
Chủ trương của Chính phủ hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập toàn cầu. Mặc dù tiếng Anh là ngôn ngữ được ưu tiên học tập hàng đầu tại Việt Nam hiện nay, chủ trương này có thể đối diện nhiều thách thức trên thực tế.
Trên thế giới có một số quốc gia công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức thứ 2 bên cạnh tiếng mẹ đẻ như Ấn Độ, Philippines hay Singapore. Tuy nhiên, lý do sâu xa cho chính sách này không nằm ở mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hay cạnh tranh toàn cầu mà xuất phát từ đặc điểm văn hóa - xã hội - chính trị cũng như lịch sử của đất nước.
Điểm chung của cả Ấn Độ, Philippines và Singapore là sự đa dạng sắc tộc và ngôn ngữ bản địa dẫn đến không có một thứ tiếng nào được sử dụng phổ biến vượt trội so với các ngôn ngữ còn lại. Việc áp đặt chính sách sử dụng bắt buộc đối với bất cứ một ngôn ngữ nào cũng sẽ gặp sự phản kháng mạnh mẽ của những sắc tộc khác. Vì vậy, các quốc gia thực hiện chính sách sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ chính thức chung bên cạnh ngôn ngữ riêng của từng sắc tộc nhằm tránh xung đột chính trị - xã hội không cần thiết.
Singapore là một quốc gia nhỏ bé về cả diện tích lãnh thổ và dân số nhưng có đến ba tộc người cùng sinh sống, bao gồm người Hoa, người Mã Lai và người Nam Ấn. Họ sử dụng ba ngôn ngữ tương ứng khác nhau là Quan thoại, Mã Lai và Tamil. Trong bối cảnh này, chính quyền rất khó áp đặt một ngôn ngữ riêng của một sắc tộc mà không dẫn đến tâm lý phản kháng của hai sắc tộc còn lại. Do đó, họ sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức để thuận tiện trong giao tiếp chung ở cấp độ quốc gia và tránh những tranh cãi chính trị hóa không cần thiết giữa các sắc dân.
Philippines thậm chí còn đa dạng ngôn ngữ và sắc tộc hơn cả Singapore, với khoảng 130-195 ngôn ngữ được sử dụng tại quốc đảo này(1). Tagalog mặc dù là tiếng nói được sử dụng nhiều nhất tại Philippines nhưng cũng chỉ được dùng bởi 39,9% dân số. Điều đó cho thấy với bối cảnh dân tộc và ngôn ngữ bản địa phức tạp, việc cần thiết phải có một ngoại ngữ trung gian được công nhận chung như tiếng Anh là điều tất yếu.
Nhu cầu cần xem một ngoại ngữ là ngôn ngữ chính thức càng bức thiết ở Ấn Độ. Cũng giống như hai quốc gia nêu trên, Ấn Độ là quốc gia đa dạng ngôn ngữ và dân tộc. Mặc dù tiếng Hindi được công nhận là quốc ngữ của Ấn Độ nhưng nó là ngôn ngữ mẹ đẻ của chỉ hơn 40% dân số và chủ yếu chỉ được dùng ở miền Bắc quốc gia(2). Do đó, ý định của nhà nước Ấn Độ đưa tiếng Hindi thành ngôn ngữ chính thức duy nhất vào năm 1950 đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của các sắc tộc khác, chủ yếu là từ các bang miền Nam nói tiếng Tamil. Cuối cùng, giải pháp của nhà nước là công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức bên cạnh tiếng Hindi như một sự thỏa hiệp cần thiết để tránh các xung đột trong nội bộ quốc gia.
Một điều cần nhắc đến là, sở dĩ các quốc gia trên chọn tiếng Anh mà không phải là một ngoại ngữ khác xuất phát từ lịch sử từng là thuộc địa của Anh và Mỹ.
Chất lượng nguồn nhân lực có phụ thuộc vào trình độ tiếng Anh?
Các ý kiến ủng hộ xem tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học thường lập luận rằng tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến trên thế giới, do đó, nếu thành thạo tiếng Anh sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm và phát triển nền kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế. Lý lẽ này không hoàn toàn thuyết phục.
Sự phát triển nền kinh tế quốc gia, sự nâng cao năng lực làm việc của người lao động phụ thuộc trước tiên vào khả năng chuyên môn trực tiếp gắn với công việc của họ. Tiếng Anh nói riêng và ngoại ngữ nói chung cũng chỉ là một kỹ năng làm việc bên cạnh các kỹ năng khác. Vì vậy, tiếng Anh chỉ là chuyên môn trực tiếp, thiết yếu trong ngành kinh tế gắn với loại sản phẩm này, như các trung tâm Anh ngữ, các ngành nghề phiên dịch, marketing cần giao tiếp tiếng Anh... Những ngành, lĩnh vực kinh doanh khác cần các chuyên môn khác. Công ty kiến trúc cần các kiến trúc sư thành thạo công việc thiết kế, công ty sản xuất sản phẩm kỹ thuật cần các kỹ sư chế tạo xuất sắc. Những ông chủ của những công ty này không ưu tiên nhân sự biết tiếng Anh nếu như họ không giỏi chuyên môn của ngành nghề đó bằng những ứng viên khác. Trong trường hợp này, tiếng Anh hay bất cứ một ngoại ngữ nào khác về bản chất chỉ là phương tiện giao tiếp.
Trên thực tế, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể bố trí nhân sự phiên dịch để hỗ trợ cho kỹ sư, kiến trúc sư hay các chuyên viên có chuyên môn kỹ thuật mà không thành thạo tiếng Anh. Nói như thế không phải là tiếng Anh không hỗ trợ cho các lĩnh vực khác nhưng các nhân sự chuyên môn này thật sự chỉ cần có một nền tảng tiếng Anh giao tiếp căn bản và thông thuộc các thuật ngữ chuyên ngành của họ. Điều này hoàn toàn có thể đạt được trong hệ thống giáo dục tiếng Anh vốn dĩ đã được chú trọng rất nhiều, ở cả cấp độ giáo dục nhà nước lẫn tự nguyện của cá nhân, tại Việt Nam hiện nay.
Việc áp đặt chính sách sử dụng bắt buộc đối với bất cứ một ngôn ngữ nào cũng sẽ gặp sự phản kháng mạnh mẽ của những sắc tộc khác. Vì vậy, các quốc gia thực hiện chính sách sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ chính thức chung bên cạnh ngôn ngữ riêng của từng sắc tộc nhằm tránh xung đột chính trị - xã hội không cần thiết.
Nhìn ra thế giới, ngoại trừ những trường hợp đặc thù như đã đề cập, những quốc gia có sự đồng nhất ở mức độ nhất định về văn hóa - xã hội không cần đến một ngôn ngữ thứ hai trong giáo dục mà vẫn phát triển tốt. Lấy các nước đồng văn với Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc làm ví dụ. Những quốc gia này không có chương trình giáo dục bắt buộc bằng ngoại ngữ nhưng họ vẫn phát triển mạnh kể cả về kinh tế lẫn văn hóa. Ngược lại, dù tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức được công nhận tại Philippines và người dân có khả năng sử dụng tiếng Anh rất tốt, nền kinh tế của họ vẫn không bứt phá. Thậm chí giờ đây quy mô nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua Philippines về cả chỉ số GDP danh nghĩa lẫn GDP bình quân đầu người. Bức tranh này nói lên rằng, tiếng Anh không phải là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của nền kinh tế.
Những hệ lụy cần được cân nhắc
Chúng ta không thể phủ nhận rằng hiện nay tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến trên toàn cầu trong nhiều lĩnh vực, từ học thuật, việc làm đến thực hành giao tiếp. Thành thạo tiếng Anh rõ ràng là một lợi thế trong công việc. Hơn nữa, học thêm một ngoại ngữ là tăng thêm tri thức về nền văn hóa và lịch sử của một quốc gia mới, thêm một công cụ để tiếp cận kho tàng kiến thức của nhân loại. Do đó, tiếng Anh nên được tiếp cận và học tập phổ biến. Tuy nhiên, công nhận tiếng Anh như là một ngôn ngữ chính thức thứ 2 được sử dụng trong môi trường giáo dục tại Việt Nam lại cần có sự cân nhắc thấu đáo, bởi lẽ chính sách này có thể sẽ dẫn đến hệ quả lợi bất cập hại.
Thứ nhất, việc xây dựng một hệ thống giáo dục bằng ngôn ngữ thứ 2 bên cạnh tiếng Việt sẽ cần một nguồn ngân sách khổng lồ từ Nhà nước và tiêu tốn nguồn lực đáng kể của các gia đình. Nhà nước cần đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho việc học bằng ngoại ngữ lẫn đào tạo nguồn giáo viên đáp ứng cả về chất lẫn lượng để có thể đảm đương việc dạy các môn học bằng tiếng Anh. Bên cạnh đó, để đảm bảo có thể theo được chương trình học này, các gia đình sẽ phải dành một phần ngân sách đáng kể để tăng cường học thêm tiếng Anh cho con em họ. Điều này tạo nên một gánh nặng kinh tế lớn nhưng không cần thiết cho xã hội. Hơn nữa, viễn cảnh này có thể dẫn đến khoảng cách ngày càng lớn trong việc tiếp cận giáo dục và việc làm giữa nông thôn và thành thị, bởi các học sinh ở các vùng xa xôi không có điều kiện nâng cao trình độ tiếng Anh để đáp ứng chuẩn đào tạo và nghề nghiệp như ở các thành phố lớn.
Thứ hai, trong một xã hội có sự tương đồng lớn về ngôn ngữ - văn hóa như Việt Nam, nhu cầu nói và viết tiếng Anh trong đời sống hàng ngày là không có. Do đó, việc học tiếng Anh thực sự chỉ gói gọn trong môi trường học mà thiếu sự thực tập ngôn ngữ hàng ngày, vốn là kỹ năng cần thiết để có thể thành thạo một ngôn ngữ đến mức có thể tham gia vào các khóa học chuyên môn. Điều này càng là trở ngại lớn của những học sinh ở các vùng xa xôi không có điều kiện học thêm hay thực hành giao tiếp. Vì thế, sự thực chất cũng như chất lượng trong mô hình giáo dục bằng ngoại ngữ liệu có được đảm bảo?
Thứ ba, việc quá chú trọng tiếng Anh dễ dẫn đến tâm lý coi tiếng Anh là chìa khóa quan trọng nhất dẫn đến thành công. Người viết có hai trải nghiệm liên quan đến vấn đề này. Một sinh viên của người viết, sau khi phúc khảo không thành công môn học bị đánh rớt, đã gửi tâm thư đến lãnh đạo nhà trường. Trong lá thư của em, lý do em đưa ra để cho rằng mình xứng đáng vượt qua môn học là em đã đạt được IELTS 8.0. Nghĩa là trong tư duy của em, điểm IELTS cao đồng nghĩa với việc em giỏi trong các môn học khác. Trải nghiệm thứ hai liên quan đến chọn nghề nghiệp. Một sinh viên từng tâm sự rằng ba mẹ chỉ muốn em chọn nghề dạy tiếng Anh mà phản đối mọi ngành nghề khác vì lý do đây là nghề nghiệp dễ kiếm tiền nhất hiện nay. Những hiện tượng này là không hề hiếm tại Việt Nam cho dù chúng ta chưa triển khai đề án công nhận tiếng Anh như là ngoại ngữ giáo dục bắt buộc.
Cuối cùng, sự tôn sùng tiếng Anh thái quá dễ dẫn đến sự xói mòn văn hóa và ngôn ngữ bản địa. Tại Ấn Độ, có hiện tượng tiếng Hindi ngày càng bị giảm sử dụng trong xã hội, một phần nguyên nhân đến từ việc tăng cường sử dụng tiếng Anh(3).
Nhu cầu xã hội quyết định tất cả
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của xã hội. Một ngôn ngữ nào đó phổ biến là khi xã hội có nhu cầu sử dụng thực chất đối với nó. Điều đó lý giải tại sao dù Việt Nam trong lịch sử từng bị đô hộ bởi “Tàu” lẫn “Tây” trong thời gian không hề ngắn nhưng tiếng Trung Quốc, Pháp hay Anh chưa bao giờ được chấp nhận rộng khắp trong đời sống người dân Việt. Sự thuần nhất trong văn hóa - xã hội Việt Nam không đặt ra nhu cầu cần có một ngoại ngữ nào khác để làm cầu nối chung cho xã hội.
Tiếng Anh vốn dĩ đã và đang được chú trọng tại Việt Nam vì sự tiện lợi của nó là không thể phủ nhận. Nhưng để nâng nó lên tầm ngôn ngữ bắt buộc trong giáo dục là không cần thiết và thực tế khó đảm bảo tính thực chất. Trong thời đại công nghệ hỗ trợ ngôn ngữ phát triển như vũ bão hiện nay, điển hình là trí tuệ nhân tạo (AI), việc bắt buộc học sinh phải học bằng ngoại ngữ có vẻ là sự “mua dây buộc mình”, lợi bất cập hại.
(*) Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM
(1) https://en.wikipedia.org/wiki/Languages_of_the_Philippines
(2) https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_languages_by_number_of_native_speakers_in_India.
(3) Nikhil Batra, Hindi Diwas 2023: What Percentage of People Can Speak Hindi in India? Check here,