Lợi thế cạnh tranh và cơ hội của ngành đóng tàu Việt Nam

Ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI, Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam nhằm vươn ra biển, khai thác tiềm năng của biển phục vụ phát triển đất nước đã thể hiện tầm nhìn vĩ mô của Đảng và Chính phủ. Trong Chiến lược phát triển kinh tế biển, ngành hàng hải đóng vai trò rất quan trọng, là cửa ngõ thông thương, giao lưu văn hóa, phát triển du lịch với các nước và là cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế biển.

Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Xuân Sang (giữa) tham quan gian hàng trưng bày của một đơn vị đóng tàu tại Triển lãm Vietship 2025.

Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Xuân Sang (giữa) tham quan gian hàng trưng bày của một đơn vị đóng tàu tại Triển lãm Vietship 2025.

Kinh tế vận tải biển và công nghiệp tàu thủy là ngành có sức lan tỏa rộng nhất trong Chiến lược phát triển kinh tế biển của mỗi quốc gia biển, vì vậy trong những năm qua, Đảng, Nhà nước cùng các bộ, ngành hữu quan đã đưa ra nhiều giải pháp, kế hoạch hành động nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp đóng tàu phát triển.

Tiềm năng lớn

Tại hội thảo với chủ đề: “Chuyển đổi xanh trong ngành hàng hải và điện gió ngoài khơi - Tiềm năng phát triển tại Việt Nam” trong khuôn khổ Triển lãm Vietship 2025 diễn ra sáng 6/3, TS Phạm Hoài Chung, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) nhận định, công nghiệp tàu thủy là ngành công nghiệp lớn, ngành công nghiệp góp phần tạo nên thị trường cho các ngành công nghiệp khác của nền kinh tế đất nước. Đến nay, cả nước có gần 90 doanh nghiệp đóng tàu biển và hơn 400 cơ sở đóng phương tiện thủy nội địa.

TS Phạm Hoài Chung, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC).

TS Phạm Hoài Chung, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC).

Việt Nam sở hữu hệ thống các nhà máy đóng mới và sửa chữa tàu trải dài theo đất nước, năng lực sản xuất đa dạng, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Các đơn vị đóng tàu thuộc khối doanh nghiệp có vốn nhà nước (SBIC, PVN) và một số nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài đảm nhận phần lớn nhu cầu này.

Tổng năng lực đóng mới hiện đạt khoảng 3,5 triệu DWT/năm (chưa bao gồm Liên doanh Hyundai Việt Nam). Tuy nhiên, năng lực đóng mới tàu vẫn còn nhiều hạn chế so với các quốc gia có ngành đóng tàu phát triển mạnh, nhất là về công nghệ, năng lực sản xuất và sức cạnh tranh.

Theo đánh giá của TS Phạm Hoài Chung, sản phẩm đóng tàu ở nước ta khá đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp đóng tàu Việt Nam đã thành công trong việc đóng mới nhiều gam tàu công suất lớn, tàu chuyên dụng, tàu công nghệ cao,…

Ngoài thị trường trong nước, các doanh nghiệp đã tham gia, hội nhập cùng thị trường quốc tế, tuy nhiên, thị phần xuất khẩu của ngành đóng tàu Việt Nam còn hạn chế. Năng suất và sức cạnh tranh chưa cao do chưa có ngành công nghiệp hỗ trợ và chưa làm chủ được khâu thiết kế kỹ thuật và thiết kế công nghệ.

Công ty Đóng tàu Sông Cấm đóng tàu xuất khẩu.

Công ty Đóng tàu Sông Cấm đóng tàu xuất khẩu.

Ngành đóng tàu được Đảng và Nhà nước xác định là ngành cơ khí trọng điểm, có vai trò, tính chất then chốt trong kết cấu phát triển công nghiệp đất nước. Từ khi thành lập (năm 1996), với trụ cột chính là Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, năng lực ban đầu chỉ đóng được tàu dưới 3.000DWT.

Sau hơn 20 năm thực hiện quy hoạch, nước ta đã đóng được hầu hết các gam tàu vận tải, điển hình như tàu hàng rời sức chở đến 65.000DWT, tàu container 1.800TEUS, kho nổi FSO 150.000DWT, tàu chở ô-tô 4900 xe, tàu dầu 104.000DWT, tàu hóa chất 13.000DWT,...

Theo Quyết định 1224/QĐ-TTg ngày 26/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy chỉ giữ lại 8 công ty con, tập trung tại ba khu vực: miền bắc (5 công ty), miền trung (1 công ty) và miền nam (2 công ty) và các công ty đóng tàu như: Nam Triệu, Bến Thủy, Nha Trang, 76, Cần Thơ. Sau tái cơ cấu, SBIC vẫn là tổ hợp đóng, sửa chữa tàu biển lớn với 25 triền/đà/ụ khô có khả năng hạ thủy cỡ tàu từ 5.000 đến 80.000DWT.

“Sản lượng thực tế trong 5 năm gần đây (2018-2023), tại SBIC chỉ đạt 0,8DWT-1,2 triệu DWT/năm, tuy vẫn là tổ hợp đóng mới, sữa chữa tàu có năng lực, chiếm hơn 50% năng lực đóng tàu của Việt Nam (không tính đơn vị có vốn FDI nhưng chỉ tương ứng khoảng 50-70% công suất do không đầu tư hạ tầng, trang thiết bị công nghệ. Hiện nay, Việt Nam xếp thứ 6-7 về năng lực đóng tàu trên thế giới, vượt qua cả quốc gia có ngành đóng tàu "sừng sỏ" trên thế giới là Phần Lan (xếp vị trí thứ 8)”, TS Phạm Hoài Chung phân tích.

Xu hướng chuyển đổi xanh

Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam có đường bờ biển dài, vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm các tuyến đường biển quốc tế, nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành vận tải biển, đóng tàu, phục vụ cả nhu cầu nội địa và xuất khẩu.

Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp đóng tàu như thúc đẩy liên kết với các đối tác quốc tế, khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ hiện đại hóa công nghệ.

Việc đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp đóng tàu đang gia tăng, đặc biệt từ các nước có công nghệ tiên tiến, tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực khai thác của doanh nghiệp đóng tàu nội địa thông qua cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ.

Thợ tàu Nam Triệu đấu nối các tổng đoạn trong quá trình đóng mới tàu.

Thợ tàu Nam Triệu đấu nối các tổng đoạn trong quá trình đóng mới tàu.

Tính đến tháng 12/2024, tổng số tàu biển, phương tiện đăng ký trong Sổ đăng ký tàu biển quốc gia Việt Nam là 1.490 chiếc; tổng trọng tải khoảng 11,367 triệu tấn, tuổi bình quân của đội tàu vận tải là 17,4 nên nhu cầu cần một thế hệ tàu mới, hiện đại thay thế đội tàu cũ đã già.

Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã có quy định bắt buộc chuyển đổi năng lượng sạch theo COP26, là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đóng tàu trong thời gian tới.

Định hướng đến năm 2030, đội tàu biển Việt Nam được cơ cấu lại và phát triển khoảng 1.600-1.750 chiếc với tổng trọng tải đạt 17-18 triệu tấn để phát triển kinh tế biển, trong đó đội tàu vận tải biển khoảng 1.200 chiếc với tổng trọng tải khoảng 13-14 triệu tấn.

Dự báo, tổng nhu cầu đóng mới bổ sung, thay thế đội tàu vận tải biển Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2030 khoảng 4-5 triệu DWT (bao gồm cả số lượng tàu đóng mới và thay thế đội tàu cũ).

Quy mô thị trường đóng tàu thế giới đã tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây theo xu thế hiện đại hơn, trọng tải lớn hơn và nhu cầu ngày càng tăng đối với tàu chuyển đổi công nghệ xanh và sử dụng nhiên liệu sạch. Tổng giá trị đóng mới toàn thị trường năm 2023 đạt hơn 207 tỷ USD, năm 2024 lên hơn 220,5 tỷ USD (tăng trưởng 6,5%).

Dự báo giai đoạn 2024-2028, quy mô thị trường đóng tàu sẽ tăng khoảng 22,1 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 3,95% /năm và sẽ đạt khoảng 195 tỷ USD vào năm 2030. Với tốc độ tăng trưởng đó, dự kiến số lượng đơn đặt hàng đóng tàu năm 2023 là 5.284 tàu, tương đương 311,2 triệu DWT.

Ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam đang và sẽ đón nhận nhiều cơ hội thuận lợi từ môi trường vĩ mô và xu hướng phát triển của thị trường, tuy vậy, các chuyên gia hàng hải và đóng tàu nhìn nhận, trong thời gian qua, ngành đóng tàu chủ yếu phát triển theo bề rộng với tỷ trọng gia công lắp ráp là chủ yếu nên chưa gia tăng giá trị cao.

Một gian hàng tại triển lãm Vietship 2025.

Một gian hàng tại triển lãm Vietship 2025.

Bên cạnh đó, hạ tầng và công nghệ các nhà máy đóng tàu hầu hết đầu tư đã lâu, không đồng bộ về công suất cũng như công nghệ, thiếu nguồn vốn để đổi mới công nghệ nên khả năng cạnh tranh với các sản phẩm hiện đại trên thị trường quốc tế còn thấp.

Các ngành công nghiệp phụ trợ như luyện kim, chế tạo máy hầu như chưa có, toàn bộ vật tư chính cho đóng tàu phải nhập khẩu, làm giảm tính chủ động và khả năng cạnh tranh của ngành,...

Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của nhiều quốc gia, tiềm năng cho thị trường đóng tàu rất lớn. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành đóng tàu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các chuyên gia thống nhất cho rằng, trước hết Việt Nam cần tận dụng tốt xu thế chuyển dịch của ngành đóng tàu thế giới từ châu Âu và Bắc Mỹ về châu Á, cùng những tiềm năng sẵn có của đất nước trong phát triển ngành đóng tàu. Đây là ngành công nghiệp nặng, đòi hỏi đầu tư hạ tầng lớn nên việc hỗ trợ về cơ chế của Chính phủ, các bộ là hết sức quan trọng.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần chủ động hợp tác với các quốc gia có ngành đóng tàu phát triển ở châu Âu nhằm tận dụng sự hỗ trợ về vốn cũng như chuyển giao công nghệ. Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững đối với ngành công nghiệp tàu thủy.

Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Xuân Sang.

Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Xuân Sang.

Theo đánh giá của Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Xuân Sang, Việt Nam xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm nay phải đạt 8%, do đó cần có các ngành để hiện thực hóa mục tiêu này, trong đó có ngành hàng hải, công nghiệp đóng tàu.

Việt Nam đang triển khai cam kết về phát thải bằng 0 theo COP26 và SBIC đang triển khai tái cơ cấu toàn diện theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Việc này sẽ giúp SBIC cùng với các thành viên sớm gỡ bỏ gánh nặng nợ nần và hồi sinh ngành đóng tàu từ chính SBIC. Với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Xây dựng, cùng đông đảo các đối tác, khách hàng, chắc chắn SBIC sẽ “lột xác” thành công.

MINH TRANG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/loi-the-canh-tranh-va-co-hoi-cua-nganh-dong-tau-viet-nam-post863340.html
Zalo