Lời hiệu triệu non sông

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi dấu những thời khắc mà vận mệnh đất nước đứng trước những lựa chọn sống còn. Vào một đêm Đông Hà Nội 79 năm trước chính là một trong những thời khắc lịch sử ấy khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, cả dân tộc bước vào cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại với niềm tin sắt đá: 'Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ'.

Lời hịch cứu nước thời hiện đại

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy đất nước ta lúc bấy giờ đứng trước hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài. Phía Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, đi cùng là bọn Việt Quốc, Việt Cách. Phía Nam, thực dân Pháp núp sau quân đội Anh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là muốn cướp nước ta lần nữa. Trong nước, giặc đói đã làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, hơn 95% dân số nước ta lúc đó mù chữ.

Bản thảo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bản thảo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đứng trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều kế sách nhằm hòa hoãn với Tưởng và Pháp để xây dựng và củng cố lực lượng. Nhưng thực dân Pháp liên tiếp gây hấn, nổ súng xâm lược Nam Bộ, lấn sâu ra Bắc Bộ và đặt tối hậu thư đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ, kiểm soát Thủ đô Hà Nội. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, để hiệu triệu toàn dân đứng lên chống Pháp, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tiếng đại bác từ pháo đài Láng hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến được phát ra, cuộc kháng chiến chống xâm lược bùng nổ trên phạm vi cả nước.

Mở đầu lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời, Người kêu gọi toàn dân, không phân biệt già - trẻ, gái - trai, giàu - nghèo; ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc… tất cả cùng đứng lên chống giặc. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngắn gọn, nhưng chứa đựng sự hùng hồn, đanh thép, đó chính là những nội dung cơ bản về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, cổ vũ mãnh mẽ, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất của nhân dân Việt Nam. Đáp lời kêu gọi cứu nước của Người, Nhân dân cả nước nhất tề đứng lên giết giặc cứu nước với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” và niềm tin mãnh liệt vào ngày đại thắng của dân tộc.

“Trái tim” của cuộc kháng chiến trường kỳ

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tuyên Quang - Thủ đô Khu giải phóng trong Cách mạng Tháng Tám, tiếp tục được chọn làm Thủ đô của cuộc kháng chiến trường kỳ, căn cứ địa trung tâm lãnh đạo toàn dân kháng chiến, kiến quốc. Từ năm 1947 đến năm 1954, Tuyên Quang là nơi ở, làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Liên Việt, các đoàn thể; 13/14 bộ và cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, 65 cơ quan Trung ương; Chính phủ kháng chiến Lào... Do là địa bàn tập trung hầu hết các cơ quan đầu não kháng chiến, mảnh đất Tuyên Quang là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của Đảng, Chính phủ, Quốc hội… đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Cán bộ, chiến sỹ các đơn vị quân đội về nguồn tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào.

Cán bộ, chiến sỹ các đơn vị quân đội về nguồn tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào.

Trong những cánh rừng rậm, những bản làng yên bình, đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan… nhường nhà cho cán bộ, nhường cơm, sẻ áo cho bộ đội, giữ bí mật, nuôi giấu cách mạng bằng tất cả niềm tin son sắt. Những con đường mòn xuyên rừng trở thành mạch máu giao liên. Những bản làng trở thành “pháo đài lòng dân”. Tuyên Quang không chỉ là nơi “đặt trụ sở”, mà là không gian kết tinh của trí tuệ kháng chiến. Chính tại đây, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh được cụ thể hóa bằng những quyết sách phù hợp với thực tiễn và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng được nuôi dưỡng, lan tỏa từ rừng núi Việt Bắc đến mọi miền Tổ quốc. Đặc biệt là chỉ đạo những chiến dịch quan trọng như: Chiến dịch Việt Bắc, Chiến dịch Biên giới, Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tuyên Quang cũng vinh dự là nơi diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng. Đây là Đại hội đầu tiên được tổ chức ở trong nước và là Đại hội duy nhất cho đến nay được tổ chức ngoài Thủ đô Hà Nội.

PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật, Phó Tổng Thư ký Hội khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định: Trong 6 tỉnh thuộc Khu Việt Bắc, Tuyên Quang không chỉ là nơi lãnh tụ Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, các ban, bộ, ngành đóng nhiều nhất, mà còn là nơi diễn ra các sự kiện quan trọng, mang tính quyết định đến đường lối và sự thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Tuyên Quang xứng đáng và đã làm tròn vai trò là Trung tâm của Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô Kháng chiến.

Lịch sử cách mạng Việt Nam mãi ghi sâu những đóng góp to lớn của Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó cũng là niềm tự hào để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang hôm nay kế thừa, phát huy trong xây dựng quê hương Tuyên Quang giàu mạnh.

An Giang

Nguồn Tuyên Quang: http://baotuyenquang.com.vn/van-hoa/du-lich/202512/loi-hieu-trieu-non-song-0106fb8/