[Loạt Megastory] Từ Đại hội đến Đại hội - Hai câu chuyện, một quyết tâm (Kỳ 2)

Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã mở ra bước ngoặt lịch sử: đổi mới toàn diện đất nước, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cả nước bước vào một giai đoạn đầy thử thách: lạm phát phi mã, đời sống nhân dân khó khăn, sản xuất trì trệ. Song nhờ những quyết sách táo bạo, đến đầu thập niên 1990, nền kinh tế dần ổn định, mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút nguồn lực bên ngoài.

Trong bức tranh đó, Đồng Nai - với vị trí cửa ngõ phía Đông Nam Bộ, gần Thành phố Hồ Chí Minh, có truyền thống công nghiệp từ trước 1975 - đã nhanh chóng trở thành một địa phương năng động, đi đầu trong thực hiện đường lối đổi mới. Bước ngoặt chính trị - kinh tế mang tên Đổi mới đặt ra cho cấp ủy địa phương bài toán kép: vừa khẩn trương phục hồi đời sống, vừa phải đổi mới tổ chức, phương thức lãnh đạo để thu hút nguồn lực (vốn trong nước, FDI) và hình thành nền sản xuất hàng hóa. Trên nền tảng đó, hai kỳ đại hội của giai đoạn này - Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IV (1986-1990) và thứ V (1991-1995) - đóng vai trò then chốt trong xác lập chương trình hành động, bầu ban lãnh đạo mới và đặt ra các “chương trình đột phá” về công nghiệp, xuất khẩu và hạ tầng.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IV (nhiệm kỳ 1986-1990) được tổ chức trong bối cảnh nền kinh tế địa phương còn nhiều áp lực do cơ chế cũ, lạm phát và cơ sở vật chất xã hội còn yếu (tỷ lệ trẻ em 6-15 tuổi không đi học, thiếu hàng trăm phòng học và giáo viên - vấn đề được đưa vào nghị quyết đại hội và chương trình hành động). Tỉnh ủy Đồng Nai đã tập trung vào các chương trình lương thực - hàng tiêu dùng - hàng xuất khẩu, đồng thời xác định công nghiệp chế biến và nông sản xuất khẩu là những mũi nhọn cần đẩy mạnh.

Đại hội IV bầu Ban Chấp hành mới gồm 45 ủy viên chính thức và 13 ủy viên dự khuyết; Đồng chí Phạm Văn Hy được Đại hội bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Những điều chỉnh nhân sự, đào tạo cán bộ được coi là nhiệm vụ quan trọng nhằm khắc phục tư duy quản lý cũ và củng cố tổ chức.

Đại hội đặt mục tiêu chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, khuyến khích các vùng chuyên canh, phát triển công nghiệp chế biến và bắt đầu tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Chương trình xuất khẩu 1986-1990 được ban hành để tăng nguồn ngoại tệ, tập trung vào một số sản phẩm có lợi thế, và bước đầu đưa kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng dần trong giai đoạn đó.

Giai đoạn 1986-1990 là giai đoạn đặt nền móng. Công tác tổ chức đảng được củng cố (chương trình đào tạo cán bộ: nhiều lớp trung cấp chính trị, bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên môn), công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường. Trong 5 năm 1986-1990, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 84,2% đảng viên, xử lý kỷ luật 1.317 đảng viên, trong đó khai trừ 476 đảng viên - dấu hiệu rõ ràng của việc kiên quyết chỉnh đốn, dọn dẹp kỷ cương nội bộ.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV là một sự kiện hết sức quan trọng đối với Đảng bộ, quân, dân Đồng Nai. Quan điểm nổi bật - “lấy dân làm gốc” - được đưa vào phương thức lãnh đạo: mọi đổi mới phải vừa giải quyết được cơm áo của người dân, vừa tạo nền tảng thể chế để thu hút vốn. Thành công ở giai đoạn này không phải là tăng trưởng ấn tượng về mặt con số ngay lập tức, mà là ổn định thể chế, kiện toàn tổ chức, bắt đầu chuyển hướng chiến lược.

Đầu thập niên 1990, nhờ những bước chuẩn bị từ nhiệm kỳ trước, chính sách thông thoáng hướng thị trường và việc chủ động thu hút đầu tư nước ngoài đã mở ra cơ hội lớn. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ V tiến hành 2 vòng. Vòng 1 diễn ra từ ngày 23 đến 25-4-1991 có 349/350 đại biểu được bầu từ đại hội của 17 Đảng bộ trực thuộc tỉnh tham dự. Trước khi tiến hành Đại hội Đảng các cấp vòng 2, ngày 12-8-1991, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII đã ra Nghị quyết cắt 3 huyện: Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai nhập với Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đảng bộ tỉnh còn 15 Đảng bộ trực thuộc gồm 8 Đảng bộ huyện, thị, thành phố, 7 Đảng bộ khối với 517 tổ chức cơ sở Đảng và 14.650 đảng viên (so với trước đó là 650 cơ sở Đảng và 17.645 đảng viên). Vòng 2 được tổ chức từ ngày 28-10 đến ngày 1-11-1991. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V gồm 47 đồng chí, đồng chí Phan Văn Trang được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, 2 đồng chí Huỳnh Văn Bình và Trần Thị Minh Hoàng được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

Đại hội đặt mục tiêu tăng trưởng mạnh, đẩy nhanh công nghiệp hóa, xây dựng các khu công nghiệp tập trung, phát triển xuất khẩu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Những chương trình đột phá được nhấn mạnh gồm phát triển công nghiệp chế biến, chuỗi hàng xuất khẩu và đầu tư hạ tầng để phục vụ công nghiệp hóa.

Giai đoạn 1991-1995 là thời kỳ bứt phá của Đồng Nai. Tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 13%/năm, gấp 4,8 lần so với giai đoạn 1986-1990; giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp tăng bình quân 25%/năm (1991-1995), so với chỉ 3,7%/năm ở giai đoạn 1986-1990; ngành nông nghiệp tăng bình quân 4,2%/năm; năm 1995 thu nhập bình quân đầu người đạt mức 3.277.000 đồng (giá cố định 1989). Tăng trưởng sản xuất công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu tạo nền tảng chuyển dịch cơ cấu rõ rệt: từ nông nghiệp chiếm ưu thế sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.

Một chỉ dấu quan trọng là FDI đột phá: đến cuối năm 1995, tỉnh có 143 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 2,3 tỷ USD, tạo việc làm khoảng 21.500 lao động - đây là động lực chính đưa giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh và đưa Đồng Nai vào nhóm dẫn đầu phía Nam về thu hút vốn đầu tư (chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh).

Trong khi phát triển kinh tế vượt mục tiêu, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vẫn được đẩy mạnh: kiểm tra, giám sát tăng cường; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng được kiểm tra và chất lượng sinh hoạt đảng được cải thiện, song vẫn còn nhiều thách thức về phòng, chống tham nhũng và giữ kỷ cương (các chương trình hành động chống tham nhũng được ban hành cuối thập niên 1990).

Đại hội V là minh chứng cho quan điểm Đổi mới gắn liền với chỉnh đốn: phát triển kinh tế phải song hành với siết chặt kỷ luật đảng và nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Thành công số lớn ở giai đoạn này (tăng trưởng công nghiệp 25%/năm; FDI 2,3 tỷ USD) không phải là ngẫu nhiên mà là hệ quả của quyết tâm chính trị, cải cách cơ chế, tập trung hạ tầng và chính sách thu hút đầu tư. Nhưng áp lực xã hội theo sau là rõ: nhập cư tăng, vấn đề nhà ở, y tế, giáo dục và môi trường trở nên cấp bách - đòi hỏi Đại hội và Ban Thường vụ phải cân bằng tăng trưởng với an sinh.

Giai đoạn 1986-1996 là thời kỳ tập trung củng cố tổ chức, chuyển hóa thể chế và tận dụng lợi thế thị trường. Bằng con số - kiểm tra, kỷ luật 1.317 đảng viên (1986–1990), FDI 2,3 tỷ USD (đến năm 1995), tăng trưởng công nghiệp 25%/năm (1991-1995) - có thể nhìn thấy hai mặt của tiến trình: sức bật kinh tế mạnh mẽ song hành với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng quyết liệt. Những quyết sách của Đại hội IV và V không chỉ là các nghị quyết trên giấy, mà đã chuyển thành các dự án, khu công nghiệp, dòng vốn và việc làm - đồng thời đặt ra trách nhiệm lớn cho kỳ đại hội tiếp theo: giữ kỷ cương, quản lý đô thị hóa, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/media/megastory/202509/loat-megastory-tu-dai-hoi-den-dai-hoi-hai-cau-chuyen-mot-quyet-tam-ky-2-70510dd/
Zalo