Linh thiêng đất Tổ Hùng Vương

Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn. Đó là đạo lý 'uống nước nhớ nguồn' của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Trở về nguồn cội là khát vọng tâm linh của mỗi người dân Việt Nam. Về với Đất Tổ đền Hùng, nơi hội tụ cho ý chí đoàn kết cộng đồng của dân tộc, là dịp để nhân dân cả nước hướng về tổ tiên, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng.

Trở về đất Tổ linh thiêng vào dịp đầu năm, trong không khí xuân ấm áp, hòa trong dòng người từ khắp mọi miền đất nước, chúng tôi, những người con quê hương cội nguồn cách mạng, nơi "phên dậu” Tổ quốc thành kính nhớ về công lao to lớn của các vua Hùng. Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngay cạnh quốc lộ 2 là cổng biểu tượng được xây dựng vào tháng 2/2010, đây là điểm nhấn dẫn vào Khu di tích lịch sử Đền Hùng vừa là một sự ngăn cách mang tính ước lệ, nhắc nhở ý thức của mỗi người dân khi bắt đầu vào vùng đất thiêng. Trải qua những bậc đá đầu tiên, cổng đền mở ra uy nghi, tôn nghiêm, trầm mặc. Theo Ban quản lý di tích lịch sử Đền Hùng, cổng được xây dựng vào thời Khải Định năm thứ 2 (1917), cổng xây kiểu vòm cuốn cao 8,5 m, hai tầng 8 mái. Tường trụ cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ tay cầm giáo, rìu chiến, mặc áo giáp. Giữa tầng 1 của cổng có đề bức đại tự "Cao Sơn cảnh hành" (núi cao đường lớn). Rất nhiều du khách về với nguồn cội trong dịp đầu xuân, nhiều nhóm bạn trẻ không ngại di chuyển, mặc trang phục áo dài truyền thống thể hiện sự thành kính và cùng lưu lại những bức hình đẹp. Thu Trang, sinh viên đại học tại Hà Nội cho biết, chúng em được nghỉ cuối tuần, về đất Tổ dâng hương, cầu mong những điều tốt lành cho năm mới. Tại nơi linh thiêng nên chúng em quyết định chọn trang phục áo dài, việc di chuyển trên những bậc đá cũng rất thuận lợi.

 Du khách thập phương về đền Hùng.

Du khách thập phương về đền Hùng.

Quần thể di tích Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và 1 lăng. Kiến trúc Đền Hùng tạo thành một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời, tạo cảm giác yên bình, thư thái trong tâm hồn cho bất cứ ai đã từng đặt chân tới nơi đây. Đền Hạ với kiến trúc đơn giản, kiểu chữ nhị gồm 2 tòa: Tiền bái và Hậu cung. Tương truyền Lạc Long Quân và Âu Cơ sau khi kết hôn về nơi đây sinh sống, Âu Cơ sinh ra 100 trứng, sau nở thành 100 trai. Khi các con khôn lớn, 50 người con theo cha về xuôi để mở mang bờ cõi, 49 người con theo mẹ lên ngược để xây dựng cơ đồ. Một người con trưởng ở lại Phong Châu, dựng kinh đô, xưng vương truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa đồng bào được bắt nguồn từ đây.

Chùa Thiên Quang được xây dựng vào thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), có tên gọi là "Viễn Sơn cổ tự”. Thế kỷ XV chùa được xây dựng lại đổi tên là "Thiên Quang Thiền Tự". Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa, trong chùa có 30 pho tượng là những công trình điêu khắc tinh xảo của các thời kỳ trước đây. Đền Trung (Hùng Vương tổ miếu), thế kỷ XIII - XIV, có hình thái kiến trúc chùa, tháp thờ Phật tại khu vực đền Trung. Thế kỷ XVII - XVIII, đền Trung được xây dựng lại, kiến trúc đơn giản, kiểu chữ nhất. Tương truyền nơi đây Vua Hùng thứ 6 đã mở cuộc thi tìm người tài đức kế vị. Lang Liêu, người con út hiếu thảo sáng tạo ra “bánh chưng” (tượng trưng cho trái đất), “bánh dày” (tượng trưng cho mặt trời), dâng cha. Vua khen bánh ngon, ý hay nên nhường ngôi cho Lang Liêu, phong tục gói bánh chưng bánh dày của người Việt có từ đó.

Trong dòng người lên núi Nghĩa Lĩnh, có rất nhiều người dân ở các tỉnh, thành phố của ba miền hội tụ về đất Tổ, cô Thái Thị Hậu, Thành phố Hồ Chí Minh, năm nay 70 tuổi, di chuyển rất nhanh nhẹn, cô chia sẻ rằng đã đến đền Hùng từ thời trẻ, nay quay lại dâng hương các Vua Hùng, bước lên mỗi bậc đá cô như được nhận thêm sinh khí mới, thấy khỏe hơn.

Lên đến Đền Thượng, có tên chữ là "Kính Thiên Lĩnh Điện" (điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Tương truyền các Vua Hùng thường lên đỉnh núi để thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, muôn dân no ấm. Đền được xây dựng kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, không có trạm trổ. Bên phía tay trái đền có cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương. Nhiều người lên dâng hương đều muốn chạm tay vào cột đá thề và lưu lại hình ảnh bên cột đá. Bạn Đức Anh, Đô Lương, Nghệ An sau khi chạm vào cột đá thề chia sẻ: Mình cầu mong sức khỏe, mạnh mẽ để có thể đạt được mục tiêu đề ra trong năm nay.

Lăng Hùng Vương.

Lăng Hùng Vương.

Cách mấy bậc đá là Lăng Hùng Vương. Ngày trước là mộ gạch có mái che, đến thời nhà Nguyễn được tôn tạo kiểu dáng như ngày nay. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Tươngtruyền là phần mộ của Vua Hùng thứ sáu (Hùng Huy Vương). Tiếp đến Đền Giếng được xây dựng vào thế kỷ XVIII, dưới chân núi Hùng về phía Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công, gồm có nhà Tiền tế, Hậu cung, 1 chuôi vồ và 2 nhà oản. Năm Khải Định thứ 7 (1922) được trùng tu lại. Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai công chúa có công dạy dân trồng lúa và trị thủy, nên về sau nhân dân lập đền thờ.

Tại đền Giếng, ngày 19/9/1954, trước khi cùng Đại đoàn quân Tiên Phong về tiếp quản Thủ đô, Bác Hồ đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đã hơn 70 năm trôi qua, câu nói của Bác vang lên từ Đền Hùng như lời hiệu triệu thiêng liêng của non sông đất nước, âm vang trong tâm hồn mỗi người con đất Việt ở khắp mọi miền Tổ quốc. Lời căn dặn của Bác nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam giữ gìn vững chắc non sông gấm vóc, bảo vệ vẹn toàn độc lập chủ quyền dân tộc. Trong đoàn người hành hương về đất Tổ, bác Triệu Thanh cựu chiến binh tỉnh Lạng Sơn xúc động cho biết: “Là cựu chiến binh mỗi lần về thăm đất Tổ chúng tôi đều có những cảm xúc riêng, cũng như mọi người dân, tôi cầu mong quốc thái dân an. Cầu mong sức khỏe để được chứng kiến đất nước ngày càng đổi thay, phát triển.

Lời Bác Hồ căn dặn tại Đền Giếng “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Lời Bác Hồ căn dặn tại Đền Giếng “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Trở lại khuôn viên rộng lớn, bức phù điêu mới được đúc bằng chất liệu đồng, có hình vòng cung với chiều dài 28,16m; cao 10,99 m; tường vách bê tông cốt thép dày 30 cm. Hai bên bức phù điêu 18 cột cờ bằng inox cao 10 m tung bay trong gió. Đây là bức phù điêu mới được thay từ cuối năm 2024, do bức phù điêu bằng đá cũ đã xuống cấp, đây cũng là điểm các đoàn khách checkin trong cuối hành trình dâng hương tại đền Hùng. Hành hương về nguồn, quốc giỗ hằng năm đã rở thành nghi lễ không thể thiếu của người Việt. Ngày giỗ Tổ tại vùng đất Tổ Phú Thọ là nơi diễn ra những hoạt động chính của ngày lễ trọng, khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhân dân và các cấp chính quyền cũng thành kính tổ chức dâng hương tưởng nhớ các Vua Hùng và rộng hơn là những nghi lễ giỗ Tổ của cộng đồng Việt kiều ở các nước trên khắp thế giới bái vọng về nguồn cội.

Trở về đất tổ đền Hùng không chỉ là một hành trình về mặt địa lý mà còn là hành trình tâm linh, kết nối quá khứ với hiện tại, nhắc nhở mỗi người dân Việt về truyền thống, lịch sử và bản sắc văn hóa dân tộc.

P.V

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/linh-thieng-dat-to-hung-vuong-3175756.html
Zalo